Pair of Vintage Old School Fru
Game mobi, avatar, phần mềm miễn phí
HOME GAME MP3
>>Kho Game Online 2013
>>Hot Clip Cựt Hay 2013
>>Kênh 18 Cập Nhật
I love you baby (Spandex)
>>Admin : Chào mừng bạn đến với wapsite http://giaitrionline.sextgem.com Trang giải trí hoàn toàn miễn phĩ hàng đầu vn.Chúc Bạn Online Vui vẻ...!
Thế giới giải trí trên mobile
>>Game Cập Nhật 24h...
Truyện ma

 

Chương 29

ĐÊM

Salvatore bị Bernard Gui phát hiện trong một tình trạng thảm hại thiếu nữ Adso yêu bị bắt và bị buộc tội là phù thủy Mọi người về giường càng lo lắng và đau buồn hơn

Vừa xuống đến nhà ăn, chúng tôi nghe vài tiếng động lớn và thấy có ánh đèn yếu ớt phát ra từ hướng nhà bếp. Thầy William liền thổi phụt đèn. Chúng tôi bám sát tường, đi đến cửa nhà bếp, nghe thấy tiếng động phát ra từ bên ngoài, nhưng cửa lại mở. Rồi tiếng động và ánh sáng biến mất, và ai đó đóng rầm cánh cửa thật mạnh. Cảnh náo động xảy ra, báo hiệu một điều chẳng lành. Chúng tôi vội trở lại lò thiêu xương, trồi lên giáo đường giờ đang vắng tanh, theo cửa nam ra ngoài và thoáng thấy những ánh đuốc bập bùng trong nhà dòng.
Chúng tôi chạy đến, và trong cảnh rối loạn, hẳn cũng đã chạy như bay, như nhiều tu sĩ khác đến từ nhà nghỉ hay khu hành hương, giờ đang có mặt tại chỗ. Chúng tôi thấy các cung thủ nắm chặt Salvatore, mặt trắng dã như đôi tròng mắt, và một người phụ nữ đang gào khóc. Tim tôi thắt lại: đó chính là người yêu trong tâm tưởng của tôi. Khi thấy tôi, nàng nhận ra ngay và nhìn tôi với ánh mắt khẩn cầu, tuyệt vọng. Tôi định chạy tới giải thoát nàng, nhưng thầy William đã giữ tôi lại và thầm thì gắt gỏng tôi. Từ mọi phía, các tu sĩ và vị khách đang chạy tới.
Tu viện trưởng đến, cùng với Bernard Gui. Trưởng toán cung thủ báo cáo ngắn lại cho Bernard hay. Việc xảy ra như sau:
Theo lệnh của phán quan, ban đêm họ tuần tra toàn tu viện, đặc biệt chú ý đến con đường dẫn từ cổng chính đến nhà thờ, khu vườn và tiền diện của Đại dinh. Thận trọng đi trong bóng đêm dày đặc sương mù, các cung thủ cuối cùng đã bắt được Salvatore cùng với cô gái, khi hắn đang lần mò mở cửa nhà bếp.
- Một đứa con gái tại nơi linh thiêng này! Với một tu sĩ! – Bernard khắc nghiệt nói với Tu viện trưởng, đoạn tiếp – Thưa Đức Cha cao quí, nếu hành động này chỉ liên quan đến sự vi phạm lời thề giữ tiết hạnh thì việc trừng phạt kẻ này là hoàn toàn thuộc quyền phân xử của Cha. Nhưng do chúng ta chưa biết chắc việc đi lại của hai kẻ xấu xa này có gây nguy hại gì đến sự an toàn của hai đoàn khách hay không, nên ta phải soi sáng việc bí ẩn này. Này, tên lưu manh kia! Ngươi dấu gì đây? – Bernard lôi từ ngực áo Salvatore ra một cái bọc lồ lộ mà hắn đang cố giấu đi.
Tôi đã biết rồi: một con dao và một con mèo đen. Khi mở bọc ra, con mèo gào lên giận dữ và phóng chạy. Hai cái trứng vỡ chảy nước nhớt nhợt, người khác trông thấy tưởng như máu hay mật vàng, hay một chất gớm ghiếc nào tương tự. Salvatore đang định vào bếp giết mèo và moi mắt nó; ai biết hắn đã hứa hẹn gì với cô gái để dụ dỗ cô ta theo mình. Ít lâu sau, tôi biết được những lời hứa hẹn đó. Bọn cung thủ vừa khám xét cô gái, vừa cười nham nhở và văng ra những lời dâm dật, chúng đã tìm thấy trong người cô một con gà trống nhỏ đã chết, nhưng chưa vặt lông. Xui xẻo thay, tắt đèn nhà ngói cũng như nhà tranh, con gà đêm đó trông cũng đen như con mèo. Tuy nhiên, tôi nghĩ cũng chẳng tốn kém mấy để dụ dỗ cô gái nghèo đáng thương ấy, người (vì yêu tôi) mà đêm trước đã vứt cả quả tim bò quý giá.
Bernard la lên, giọng lộ vẻ quan tâm lắm:
- A ha! Mèo đen, gà đen… À, ta biết những thứ đồ tế nhuyễn loại này lắm mà…
Hắn để ý thấy thầy William trong số những người hiện diện, bèn nói:
- Sư huynh William cũng nhận ra những thứ này chứ? Chẳng phải ba năm về trước, tại Kilkenny, Huynh đã là phán quan, chứng kiến cô gái đó giao cấu với quỉ sứ, hiện ra dưới dạng một con mèo đen ư?
Theo tôi, dường như thầy William im lặng vì hèn nhát. Tôi nắm tay áo thầy, giật giật, tuyệt vọng thầm thì:
- Thầy nói đi, nói rằng gà chỉ để ăn thôi…
Thầy gỡ tay tôi ra và nhã nhặn nói với Bernard:
- Tôi nghĩ, Huynh chẳng cần các kinh nghiệm xưa của tôi để đi đến kết luận của mình.
Bernard mỉm cười:
- Ồ, không đâu, còn có nhiều nhân chứng có căn cứ hơn. Stephen xứ Bourbon, trong luận chứng về bảy quà tặng của Thánh Linh, kể Thánh Dominic, sau khi giảng đạo tại Fanjeaux chống bọn dị giáo, đã tuyên bố với một số phụ nữ rằng, họ sẽ được gặp đức thầy bấy lâu họ hằng phục vụ. Đột nhiên, một con mèo đáng sợ nhảy ngay vào giữa đám đông. Nó to như một con chó lớn, đôi mắt khổng lồ đỏ rực, lưỡi dài đến rốn đầy những máu, cái đuôi ngắn dựng thẳng lên trời, do đó dù con thú có xoay hướng nào đi nữa, nó cũng phơi bày cái hậu môn xấu xa hôi thối của nó. Các môn đồ của quỉ Sa tăng, không kể các Hiệp sĩ Templar, luôn có thói quen hôn hậu môn đó mỗi khi gặp gỡ. Sau khi đảo quanh đám phụ nữ cả giờ đồng hồ, con mèo phóng lên sợi dây chuông, leo lên cao tít, để lại một đống phân tanh tưởi.
Những tiếng rì rầm kinh hoàng lan khắp đám tu sĩ, nhiều người đưa tay làm dấu thánh giá.
Bernard nói, mặt lộ vẻ đạo đức:
- Thưa Tu viện trưởng, có lẽ Đức cha không biết những kẻ phạm tội thường làm gì với những công cụ như thế này! Nhưng nhờ ơn Chúa, tôi biết rất rõ! Tôi đã nhìn thấy những tên độc ác nhất, cùng đồng bọn của chúng, trong đêm khuya thanh vắng đã dùng mèo đen để làm những thứ phép mà chúng không thể chối cãi được: chúng cưỡi lên con thú và nhờ bóng đêm che chở, lao vút vào không gian bao la, kéo theo bọn nô lệ của chúng đã hóa thành những thần bóng đè dâm dục… Rồi Quỉ hiện ra, hay có lẽ chúng tin thế, dưới dạng một con gà hay vài con thú màu đen nào khác. Rồi bọn chúng, chớ hỏi tôi bằng cách nào, ngủ với Quỉ. Và tôi biết chắc rằng cách đây không lâu, chính tại Avignon, các loại bùa ngải và thuốc xức đã được chế bằng những phép phù thủy như thế này, để mưu hại sinh mạng Đức Giáo Hoàng của chúng ta, bằng cách bỏ thuốc độc vào thức ăn của Người. Giáo hoàng đã bảo toàn được thân mình và phát hiện loại thuốc độc, chính nhờ Người có đeo những viên châu ngọc lớn, chạm hình lưỡi rắn, đính nhiều hồng ngọc và ngọc lục bảo đã được ban phép thánh. Kẻ thù của Giáo Hoàng còn đi xa hơn nữa, và mọi người hẳn biết về tên dị giáo Bernard Délicieux bị bắt cách đây mười năm; người ta tìm thấy trong nhà hắn những quyển sách về tà thuật, có chú thích trên những trang tàn ác nhất, hướng dẫn cách làm những hình nhân bằng sáp để hại kẻ thù. Mọi người có tin nổi không? người ta còn tìm thấy trong nhà hắn những hình nhân chế tạo thật tinh xảo, giống hệt hình của Giáo hoàng, trên đó có khoanh những vòng tròn nhỏ màu đỏ, chỉ những chỗ hiểm trong thân thể. Mọi người biết rằng, hình nhân đó sẽ được treo bằng sợi chỉ trước một tấm gương, rồi dùng kim đâm xuyên qua những chỗ hiểm, và… Ồ, tại sao tôi lại nói mãi về những thứ bùa phép độc ác, ghê tởm ấy nhỉ? Chính Giáo hoàng đã mô tả và lên án chúng trong quyển “Trên những tấm gương của bọn chúng”[1] do Người viết năm ngoái. Hy vọng Đức cha có một bản trong thư viện phong phú của Ngài, nơi nó sẽ được suy ngẫm…
- Chúng tôi có, chúng tôi có – Tu viện trưởng xác nhận ngay, giọng u buồn.
Bernard kết luận:
- Rất tốt. Bây giờ vụ nầy có vẻ rõ ràng rồi. Một tu sĩ bị cám dỗ; một mụ phù thủy, và vài phù phép gì đó may thay chưa được thực hiện. Nhằm mục đích gì? Đó là điều chúng ta phải tìm hiểu, và tôi sẵn sàng hy sinh vài giờ nghỉ ngơi để biết cho ra nhẽ. Đức cha cho phép tôi sử dụng một nơi nào đó để giam người này chứ?
- Chúng tôi có vài phòng dưới hầm của lò rèn, rất may ít khi dùng đến và đã bỏ hoang nhiều năm.
Bernard nhận xét:
- May hay không may.
Rồi hắn ra lệnh cho các cung thủ tìm người chỉ đường xuống đó và đem giam hai phạm nhân vào hai phòng riêng biệt. Họ phải cột chặt Salvatore vào những cái khoen đóng dính trong tường để lát nữa đây, Bernard có thể nhìn thẳng vào mặt hắn khi hỏi cung. Bernard tiếp rằng, vì đã rõ cô gái là ai, nên đêm nay không cần tra hỏi gì. Cô sẽ đợi đem ra xét xử trước khi bị thiêu như một phù thủy. Và nếu là phù thủy, cô sẽ chẳng dễ dàng chịu khai đâu. Nhưng một tu sĩ thì có thể sẽ ăn năn, cung khai sự thật và tố cáo những tên đồng lõa.
Cả hai bị lôi đi, một người im lặng và đập phá như điên cuồng, người kia khóc nức nở, vừa đá vừa la như một con thú sắp bị thọc tiết. Nhưng cả Bernard, bọn cung thủ, lẫn tôi đều không hiểu được tiếng địa phương của cô gái. Nàng la thét mà như một người câm. Có những từ mạnh mẽ gây xúc động, những từ khác khiến chúng tôi càng hoang mang hơn, trong đó có những từ tục tằn của giới bình dân, những người chưa được Chúa ban cho ơn huệ thể hiện được mình bằng ngôn ngữ chung của trí thức và quyền lực.
Một lần nữa, tôi dợm bước theo nàng, một lần nữa thầy William nghiêm mặt giữ tôi lại. – Đứng yên, thằng ngốc. Cô gái bị bắt rồi, và sẽ bị thiêu sống.
Khi tôi kinh hoàng theo dõi cảnh tượng, mắt nhìn nàng mà lòng tràn ngập những suy nghĩ mâu thuẫn nhau, tôi cảm thấy ai đó chạm vào vai mình, không hiểu tại sao ngay trước khi quay lại, tôi đã biết rõ đó chính là Ubertino. Cha hỏi:
- Con đang nhìn mụ phù thủy ấy phải không?
Tôi biết Cha không hay gì về chuyện của tôi. Với sự am tường đáng sợ các đam mê của con người, Cha hỏi chỉ vì đã bắt gặp trong ánh nhìn của tôi một sự căng thẳng lạ thường.
Tôi chối: - Không, con không nhìn cô ấy… đúng ra có lẽ con nhìn cô ây, nhưng cô ấy không phải là phù thủy… Chúng ta biết mà: Có lẽ cô ấy vô tội…
- Con nhìn cô gái ấy vì cô ta đẹp. Cô gái đẹp, phải không? – Cha xiết cánh tay tôi, hỏi giọng vô cùng ấm áp. – Nếu con nhìn vì cô ấy đẹp, lòng thấy chao đảo, nhìn mà thấy lòng thèm muốn thì chỉ việc đó thôi cũng biến cô ta thành phù thủy rồi. Hãy cảnh giác, con ạ… Vẻ đẹp của thân thể chỉ ở ngoài da thôi. Nếu đàn ông có thể nhìn thấy cái gì ở dưới lớp da đó, như linh miêu xứ Boeotia[2], thì họ sẽ rùng mình khi thấy đàn bà. Tất cả vẻ yêu kiều đó chỉ gồm có máu mủ, thể dịch và mật đắng. Nếu con nghĩ đến những gì ẩn dưới lỗ mũi, trong cổ họng và dạ dày thì sẽ thấy chỉ toàn chất hôi thối. Nếu con thấy tởm lợm khi chạm tay vào mủ hay phân thì tại sao lại khao khát muốn ôm cái bao đầy phân đó?
Tôi thấy lợm giọng, không muốn nghe gì nữa. Thầy tôi cũng đã nghe, liền đến cứu tôi. Thầy đến gần Ubertino, cộc cằn nắm lấy cánh tay Cha và giằng tôi ra.
- Đủ rồi, Ubertino. Cô gái ấy chốc nữa đây sẽ bị hành hình, rồi đưa lên giàn hỏa. Cô ta sẽ hóa thành thứ đúng như cha nói: máu, mủ, thể dịch và mật đắng. Nhưng những người như chúng ta sẽ là kẻ đào từ dưới làn da đó cái mà Chúa muốn che chở và được làn da kia tô điểm. Khi nó biến thành vật chất nguyên sơ thì Cha cũng chẳng tốt đẹp gì hơn cô ta đâu. Hãy để thằng bé được yên.
Ubertino bàng hoàng, thầm thì:
- Có lẽ ta đã phạm tội. Ta chắc đã phạm tội rồi. Một người phạm tội có thể làm gì khác?
Bây giờ mọi người đang quay vào bên trong, bàn bạc về sự kiện vừa qua. Thầy William nán lại một lúc với cha Michael và các tu sĩ dòng Khất thực khác, họ hỏi thầy nghĩ gì.
- Trong đầu Bernard bây giờ đang hình thành một lập luận, tuy còn lờ mờ. Trong tu viện, có những phù thủy hoạt động, đang tiến hành những việc giống như những việc làm trước đây nhằm chống giáo hoàng tại Avignon. Đương nhiên đây không phải là chứng cớ, và trước tiên, nó sẽ không thể dùng để phá rối cuộc họp ngày mai. Đêm nay, Bernard sẽ cố moi từ tu sĩ khốn khổ đáng thương đó vài điều mấu chốt khác, mà tôi chắc chắn hắn sẽ không dùng ngay sáng mai đâu. Hắn sẽ để dành đó. Sau này hắn sẽ dùng nó để đảo lộn tiến trình của cuộc tranh luận, nếu chúng chuyển hướng bất lợi cho hắn.
Cha Michael hỏi: - Hắn có thể ép tu sĩ đó nói điều gì đó và dùng nó chống lại chúng ta không?
Thầy William do dự nói: - Hy vọng là không.
Tôi biết, nếu Salvatore khai với Bernard những gì đã kể cho chúng tôi về quá khứ của hắn và quản hầm, nếu hắn tiết lộ điều gì về quan hệ với Ubertino, dù chỉ một thoáng thôi, thì sẽ gây ra một tình cảnh hết sức bối rối.
Thầy William điềm đạm nói: - Dầu sao, hãy đợi xem chuyện gì sẽ xảy ra. Về việc đó, Cha Michael à, mọi thứ đã được quyết định trước rồi. Nhưng Cha muốn thử mà.
Cha Michael nói: - Cha muốn, và Chúa sẽ giúp Cha. Cầu thánh Francis giúp tất cả chúng con.
- Amen, - mọi người đáp lại
- Nhưng điều đó không nhất thiết xảy ra, - thầy William nhận xét hơi bất kính, - Thánh Francis có thể đang ở đâu đó, đợi đến ngày phán xét mà không giáp mặt với Thượng đế.
- Nguyền rủa tên dị giáo John! – Tôi nghe thầy Jerome lầu bầu khi mọi người về phòng nghỉ. – Nếu hắn cướp đi sự giúp đỡ của thánh thần, thì những kẻ tội lỗi đáng thương như chúng ta sẽ ra sao?

Chú thích:
[1] Super illius Specula!
[2] Một miền đất Hy lạp cổ xưa, tây bắc Attica, thủ đô: Thebes


Phần 5

Chương 30

NGÀY THỨ NĂM

KINH ĐẦU

Cuộc tranh luận về sự cơ nghèo của Chúa Kitô

Tim tôi bị dày vò bởi trăm ngàn nỗi khắc khoải sau cảnh tượng đêm qua, nên buổi sáng ngày thứ năm, khi tôi thức dậy, thì chuông báo Kinh Đầu đã điểm. Thầy William lắc tôi thật mạnh, đe rằng hai phái đoàn sẽ gặp nhau chốc lát nữa thôi. Tôi nhìn ra cửa sổ, chẳng thấy gì cả. Làn sương mù hôm qua, giờ vẫn là lớp màn sữa đục phủ trùm lên toàn cao nguyên.
Khi bước ra ngoài, cảnh tu viện hiện ra ngỡ như chưa từng trông thấy nó bao giờ. Từ xa xa, ta nhận ra được vài tòa nhà chính – như giáo đường, Đại Dinh, nhà nguyện – dù vẫn mờ mờ ảo ảo như bóng lồng trong bóng, còn các khu nhà khác thì đến gần mấy bước mới nhận ra. Đồ đạc và thú vật dường như đột hiện lên từ cõi hư vô; người ta hiện hình lên như những bóng ma, ban đầu màu xám, rồi dần dần, một cách khó khăn, mới nhận ra mặt.
Sinh ra từ miền Bắc, tôi không quen với loại thời tiết mù sương này. Có lẽ vào lúc khác, nó sẽ nhẹ nhàng gợi tôi nhớ đến những bình nguyên và lâu đài nơi quê hương tôi. Nhưng sáng hôm nay, thời tiết này đau đớn thay, lại giống với tâm hồn tôi quá, và nỗi buồn do nó đánh thức dậy cứ lớn dần lớn dần khi tôi chậm bước đến nhà nguyện.
Còn cách nhà nguyện vài thước, tôi thấy Bernard Gui chia tay với một người mà tôi chưa kịp nhận mặt. Khi người ấy đi qua, tôi mới biết là Malachi. Huynh ấy nhìn quanh như một người phạm tội không muốn bị ai bắt gặp.
Huynh không nhận ra tôi và bỏ đi. Bị óc hiếu kỳ thôi thúc, tôi đi theo Bernard và thấy hắn đang giở xem vài tờ giấy gì đó, có lẽ do Malachi vừa đưa. Đến cổng nhà nguyện, hắn ra dấu gọi trưởng nhóm cung thủ đang đứng gần đó đến và thầm thì vài lời với người này. Rồi hắn đi vào. Tôi tiếp tục bám theo.
Đây là lần đầu tiên tôi đặt chân đến đây. Nhìn từ bên ngoài, nhà nguyện lớn vừa phải, kiến trúc thanh nhã. Tôi nhận thấy nó vừa được xây lại trên tàn tích của một giáo đường nguyên sơ dành cho tu viện trưởng, mà một phần có lẽ đã bị hỏa thiêu.
Từ ngoài bước vào, người ta đi qua một cánh cổng kiểu mới, vòm nhọn không có trang trí, trên cùng là một cửa sổ hồng. Nhưng bên trong, người ta lọt vào một tiền sảnh xây dựng trên nền móng của một hành lang cũ. Đối diện là một cửa khác, vòm kiểu xưa, với một mạng giữa hình bán nguyệt, được chạm khắc tuyệt đẹp. Hẳn đó là cánh cửa của nhà thờ cũ, nay đã biến mất. Không có hình ảnh kỳ thú nào chạm khắc trên cánh cửa khiến người ta cảm thấy bất an, vì chúng không tượng trưng cho các tội lỗi trần thế hay nỗi khổ đau dưới địa ngục, mà chỉ muốn minh chứng rằng, Chúa Lời đã đến với toàn thế giới hữu tri và đang lan đến thế giới vô tri. Như thế, cánh cửa này là lời hứa hoan hỉ về một sự hài hòa, thống nhất, đạt được trong lời Chúa dạy, về một giáo hội tốt đẹp toàn thế giới.
Tôi nhủ thầm, đây là một điềm báo tốt cho cuộc họp sắp xảy ra bên trong ngưỡng cửa này. Tại đây, những con người vì những lời minh giảng mâu thuẫn về phúc âm đã trở thành kẻ thù của nhau, hôm nay có thể sẽ hòa giải được các ý kiến bất đồng. Tôi tự trách mình là một kẻ tội lỗi yếu đuối, cứ mãi khóc than vì nỗi đau riêng, trong khi những biến cố quan trọng trong lịch sử Thiên chúa giáo như thế này đang sắp xảy ra. Tôi so sánh khổ đau hèn mọn của mình với lời hứa cao cả về một nền hòa bình yên lành đã được khẳng định trong viên đá của mạng giữa. Tôi xin Chúa tha thứ sự yếu đuối của tôi, và tôi băng qua thềm cửa với niềm thanh thản mới.

o0o


Vừa bước vào, tôi thấy toàn bộ các thành viên của hai phái đoàn đã đến đông đủ. Họ ngồi đối diện nhau trên các băng ghế dài được sắp theo hình bán nguyệt, hai phe ngăn cách nhau bởi một chiếc bàn, nơi Tu viện trưởng và Hồng y Bertrand đang ngồi.
Thầy William đặt tôi ngồi cùng với các tu sĩ dòng Khất thực. Ở đây, có Cha Michael cùng các môn đệ, và các tu sĩ khác của dòng Francisco trong Triều Avignon, vì cuộc gặp gỡ này không nhằm làm ra vẻ một trận chiến tay đôi giữa người Ý và người Pháp, mà chính là cuộc tranh luận giữa những người ủng hộ giáo luật dòng Francisco với những người chỉ trích nó – những người thảy đều liên kết với nhau bởi lòng trung thành Công giáo vững chắc với triều đình Giáo hoàng.
Tu viện trưởng khai mạc phiên họp và cho rằng đây là lúc thích hợp để tóm lược các biến cố trong thời gian gần đây. Cha nhắc lại rằng, trong năm 1332, Đại hội chung của các thầy dòng Khất thực, họp tại Perugia, dưới sự lãnh đạo của Cha Michael xứ Cesena, đã xác lập một suy nghĩ đúng đắn là để nêu gương cho một cuộc đời hoàn thiện, Đấng Ki-tô và các tông đồ theo lời dạy của Ngài, đã chẳng bao giờ sở hữu một vật gì, dù là của cải hay hận thù.
Sự thật này là một điều trong đức tin và giáo lý của Thiên chúa giáo, được suy ra từ nhiều đoạn khác nhau trong các kinh sách. Như thế, việc từ bỏ quyền sở hữu mọi vật là xứng đáng và thiêng liêng. Hội đồng thành Viên năm 1312 cũng đã tán thành chân lý này. Chính Giáo hoàng John trong sắc lệnh “Đòi hỏi của một số người”[1] năm 1317, về tình trạng của các thầy dòng Khất thực, đã cho rằng sự khẳng định của Hội đồng đó là đúng đắn và hợp lý. Tu viện trưởng tiếp, thế nhưng năm 1323, John đã ban hành sắc lệnh ngày nay rất nổi tiếng là “Giữa một số người”[2] trong đó hoàn toàn lên án các luận thuyết của Đại hội Perugia.
Đến đây, giáo chủ Bertrand nhã nhặn ngắt lời Tu viện trưởng và bảo rằng năm 1324, để làm sự việc phức tạp hơn và để chọc giận Giáo hoàng, Vua Louis đã khẳng định các luận thuyết của Đại hội Perugia mà chẳng hề có căn cứ nào, rồi đặt mình chống lại Giáo hoàng, gọi Giáo hoàng là kẻ gây tai tiếng và gieo mầm mất đoàn kết, và sau cùng là kẻ cầm đầu dị giáo.
Tu viện trưởng liền tiếp tục và bảo phần đầu của cuộc tranh luận nên được tiến hành giữa các sứ giả của Giáo hoàng với những người con đại diện của Thánh Francis, những người bằng việc tham gia cuộc gặp gỡ này, đã chứng tỏ mình là những đưa con trung thành nhất của Giáo hoàng. Đoạn, Tu viện trưởng mời cha Michael, hay đại biểu của Cha, chỉ rõ lập trường mà Cha định bảo vệ tại Avignon.
Cha Michael bảo ông vui mừng thấy trong số những người tham dự sáng nay có Cha Ubertino xứ Casale, người mà chính Giáo hoàng năm 1322 đã yêu cầu viết một bản tường thuật đầy đủ về vấn đề sự cơ nghèo của Chúa. Ubertino là người tốt nhất có thể tóm lược các điểm cốt yếu của các tư tưởng mà ngày nay, vẫn là những tư tưởng của dòng Francisco không hề thay đổi.
Ubertino đứng dậy, và bằng một giọng nói đầy thuyết phục, nụ cười đầy hấp lực, cách lý luận rõ ràng và liên tục, Cha đã thu hút người nghe suốt thời gian trình bày, Cha đưa ra một bản luận văn dài rất uyên bác, nêu lên các căn cứ làm nền tảng cho các luận thuyết của Đại hội Perugia.
Nhưng đến đây, Jean d’Anneaux phía đối diện đã đứng dậy tuyên bố rằng, ông nghĩ các lập luận của Ubertino là trái ngược với sự suy luận đúng đắn lẫn sự minh giảng đúng đắn về Thánh kinh.
Bên dòng Khất thực, Jerome, Giám mục xứ Kaffa, đã nóng nảy đứng dậy. Hàm râu Huynh run lên vì tức giận, mặc dù đã cố nói giọng hòa hoãn. Huynh đưa ra các lập luận hơi lộn xộn. Thế nhưng các lý lẽ trái ngược của Jean de Baunine, phe Giáo hoàng, giờ đã điên tiết lên, nghe còn lộn xộn hơn. Cuộc tranh luận càng lúc càng gay gắt, và đã có thêm sự tham gia của Giám mục dòng Dominic xứ Alborea. Rồi Alborea đuối lý, bèn lao ngang qua khoảng ngăn cách dòng Khất thực và đoàn Giáo hoàng, la toáng lên và dùng những lời lẽ tôi chẳng dám nhắc lại, đe dọa sẽ bứt râu Giám mục xứ Kaffa, nhét râu ông vào đâu đó, để trừng phạt theo kiểu ăn miếng trả miếng.
Các tu sĩ dòng Khất thực vội chạy tới quây thành một vòng cản, bảo vệ người anh em của mình; bên Avignon nghĩ rằng nên tiếp tay với giám mục Dominic, người cùng phe mình, và thế là một trận cãi lộn ầm ĩ liền nổ ra. Tu viện trưởng và Hồng y phải cố hết sức mới dẹp yên, nhưng trong trận đấu võ mồm hỗn loạn tiếp theo đó, các tu sĩ dòng Khất thực và tu sĩ dòng Dominic mắng nhau hết sức nặng lời, như thể mỗi người là con chiên của của Chúa chống lại bọn Saracen[3]. Hai người duy nhất còn ngồi trên ghế là William phía bên này và Bernard Gui phía bên kia. Thầy William lộ vẻ buồn, còn Bernard lại ra mặt vui, khẽ nhếch mép cười.
Khi Alborea nắm lấy hàm râu của Giám mục xứ Kaffa, tôi hỏi thầy:
- Chẳng lẽ không có cách tranh luận nào để chứng minh hay phản bác sự cơ nghèo của Chúa tốt hơn ư?
- À, con có thể xác nhận cả hai lập trường, Adso ạ. Nhưng vấn đề không phải Chúa nghèo hay không nghèo mà chính là Giáo hội có buộc phải nghèo hay không, và “nghèo” không có nghĩa là có hay không sở hữu một cung điện. Thực ra, nó có nghĩa là xác nhận hay phủ nhận các quyền hợp pháp được sở hữu của cải trần gian.
- Thế thì tại sao Hoàng đế lại rất chú ý đến những gì dòng Khất thực nói về sự cơ nghèo.
- Đúng thế. Dòng Khất thực đang về hùa với Hoàng đế chống lại Giáo hoàng. Nhưng Marsilius và thầy xem đó là con dao hai lưỡi, và muốn triều đình ủng hộ quan điểm của chúng ta và phục vụ lý tưởng vì nhân loại.
- Thầy sẽ nói như thế khi người ta mời thầy phát biểu chăng?
- Nếu thầy nói như vậy, thầy sẽ hoàn thành sứ mệnh của mình là giải thích các quan điểm của những nhà thần học triều đình. Nhưng đồng thời, thầy cũng không chu toàn nhiệm vụ, vì thầy phải tạo điều kiện dẫn đến một cuộc gặp gỡ khác ở Avignon, và thầy e rằng Giáo hoàng John sẽ không nhất trí cho thầy đến đó, nếu thầy nói những điều này.
- Vậy thì…?
- Vậy thì thầy bị kẹt giữa hai thế lực đối nghịch nhau, như một con lừa loay hoay không biết nên ăn bao rạ nào. Thời điểm chưa chín muồi. Marsilius kêu gào phải có một cuộc đổi mới cấp tốc, nhưng không thể thực hiện được. Còn Hoàng đế Louis đâu có khá hơn các vị tiên vương, mặc dù hiện nay Ngài là thành trì duy nhất chống lại một tên xấu xa như John. Nếu họ không giết sạch nhau, thì thầy sẽ phải lên tiếng. Dầu sao, con cũng phải ghi lại tất cả những lời phát biểu: tối thiểu, chúng ta cũng lưu lại được biên bản của cuộc họp hôm nay.
Khi hai thầy trò tôi nói chuyện thì cuộc tranh cãi đã lên đến tột đỉnh gay gắt. Quả thực, tôi cũng không hiểu làm thế nào mà chúng tôi lại nghe giọng nói của nhau được. Bernard Gui bèn ra hiệu cho các cung thủ vào để tách hai phe ra. Nhưng, như những người bao vây và bị bao vây ở hai bên chiến lũy, họ vẫn chửi bới, lăng nhục nhau, người này không đợi người kia nói dứt lời như thường xảy ra trong các vụ tranh luận ở quê tôi, mà theo kiểu dân trời biển, câu này lấp câu kia, như những làn sóng của một đại dương cuồng nộ. Tôi ghi lại đây một cách lộn xộn, không rõ người nào nói câu nào.
- Phúc âm nói rằng, Chúa có một túi tiền!
- Câm mồm! Chính các người đã vẽ các túi ấy lên cả thánh giá. Thế ngươi sẽ nói sao về việc Chúa khi đến Jerusalem phải trở về nghỉ đêm ở Bethany[4]?
- Nếu Chúa muốn ngủ ở Bethany thì ngươi là cái thứ gì mà thắc mắc?
- Không, đồ ngu. Chúa về Bethany vì Ngài không có tiền trả phòng trọ ở Jerusalem!
- Quỉ thần ơi, nhà ngươi thật ngốc như lừa. Thế Chúa ăn gì ở Jerusalem?
- Thế thì một con ngựa được chủ cho ăn lúa để sống có phải là chủ của lúa không?
- Thấy chưa? Ngươi so sánh Chúa với con ngựa…
- Không, chính ngươi là kẻ đã so sánh Chúa với tên Giám mục buôn thần bán thánh của triều đình ngươi, đồ đống cứt!
- Thế ư? Đã bao nhiêu lần giáo hội phải vác chiếu hầu tòa để bảo vệ tài sản của các ngươi?
- Tài sản của giáo hội chớ không phải của chúng tôi. Chúng tôi chỉ sử dụng nó thôi!
- Sử dụng để tiêu pha, để xây dựng nhà thờ đẹp, có tượng vàng, đồ đạo đức giả, mồ cha cố tổ những tên xấu xa đê hèn. Ngươi thừa biết không phải sự cơ nghèo mà chính là việc từ thiện mới thực là nguyên tắc của một đời toàn thiện.
- Đó chính là những lời của tên Thomas háu đói của các ngươi!
- Đồ du côn, hãy giữ lời ăn tiếng nói. Người mi gọi là “tên háu đói” chính là một vị thánh của giáo hội La Mã!
- Thánh đếch gì! Được John phong thánh để chọc quê dòng Francisco! Giáo hoàng của các ngươi không thể tạo ra thánh, vì hắn chính là một tên dị giáo! Tên đầu sỏ dị giáo!
- Bọn ta đã nghe điều đó rồi. Những lời phun ra từ bọn ngụy Bavaria ở Sachsenhausen, được Ubertino của các ngươi nhai đi nhai lại!
- Chớ hàm hồ, đồ lợn, mày là con của con mụ điếm Babylon và những con đượi khác! Ngươi biết năm đó Ubertino không ở với Đức vua mà ở ngay tại Avignon để phục vụ Giáo chủ Orsini, và Giáo hoàng đã phái cha đến Aragon làm sứ giả!
- Biết quá rồi, tại bàn ăn của giáo chủ, lão thề sẽ sống đời nghèo nàn, mà nay lại ở trong tu viện giàu nhất của bán đảo nước Ý này! Ubertino, nếu ngươi không ở đấy thì ai đã ở đấy thúc giục vua Louis sử dụng tác phẩm của ngươi?
- Nếu vua Louis đọc tác phẩm của ta thì ta có lỗi gì? Chắc chắn vua không thể đọc sách của các ngươi, đồ vô học.
- Ta mà vô học ư? Chẳng phải Thánh Francis của các ngươi là đồ vô học, đi nói chuyện với ngan ngỗng sao?
- Đồ báng bổ!
- Mi mới chính là đồ báng bổ.
Đến đây, Hồng y Bertrand và Tu viện trưởng đồng thanh hét lên:
- Thôi đi, thôi đi các huynh kính mến!

Chú thích:
[1] Quorundam exigit
[2] Cum inter nonnullos
[3] Người Hồi giáo chống lại Thập Tự Quân
[4] Một thành phố cổ gần Jerusalem, trên núi Olives

 



.:: Trang chủ ::.
>>Tag :
Online: 1 / 1
C-STAT