Old school Easter eggs.
Game mobi, avatar, phần mềm miễn phí
HOME GAME MP3
>>Kho Game Online 2013
>>Hot Clip Cựt Hay 2013
>>Kênh 18 Cập Nhật
I love you baby (Spandex)
>>Admin : Chào mừng bạn đến với wapsite http://giaitrionline.sextgem.com Trang giải trí hoàn toàn miễn phĩ hàng đầu vn.Chúc Bạn Online Vui vẻ...!
Thế giới giải trí trên mobile
>>Game Cập Nhật 24h...
Truyện ma

 

Chương 4

Hai đứa trẻ Henry Oberteuffer và John Jones dừng lại cách quán “Đầu Heo Rừng” khoảng ba mươi mét. Chúng thấy những người công nhân miễn cưỡng đi vào quán rượu rồi bước ra mang theo đủ mọi dụng cụ, ném chúng vào trong xe tải và lần lượt leo lên. Chiếc xe nặng nề lăn bánh trên con đường mòn qua những bồn cỏ hai bên có cây đu. Rồi sau khi vượt qua cửa cổng nó chạy ra ngoài đường cái.
Bên trong quán “Đầu Heo Rừng” không có ai. Mặt đất chung quanh đầy những rác rưởi của nhiều thế hệ người cắm trại bất cẩn đã để lại. Từ lúc những công nhân đã rời đi, và nhất là từ khi những người đi đường không còn quan tâm đến cái quán rượu cũ kỹ, John và Henry nhận ra rằng chúng là những người duy nhất trên đời quan tâm đến số phận của nó.
Chúng nhìn nhau rồi không nói một câu, bước chân qua cổng, lao người trên con đường mòn và chỉ dừng lại khi đứng giữa gian phòng chính của quán rượu. Sau đó chúng đi đến từng gian phòng và quan sát kỹ lưỡng khắp nơi. Chúng nhận thấy một vách ngăn gỗ đã biến mất và quang cảnh đã thay đổi.
Từ khi những phần thêm đã bị lấy đi rất gần đây cùng những phần trang trí mong manh, những cột đẽo bằng tay đã xuất hiện cũng như lớp vữa đầu tiên. Những gian phòng đã lấy lại vẻ cũ kỹ hơn, trang trọng hơn, nhưng cũng có một không khí đặc biệt hơn trước.
Henry cúi nhặt một vật thật sự “thời thượng”, một mẩu nến may mắn thoát khỏi răng chuột. Nó bỏ vào túi.
John là người đầu tiên cất tiếng :
- Không còn như trước nữa, cậu có nhận thấy như vậy không?
- Có. – Henry đáp.
- Những công nhân đã bốc đi những lớp đá có khoảng năm mươi năm hay một trăm năm trước. Bây giờ mới đúng như lúc Râu Đen còn sống ở đây.

John tách xa bạn và bắt đầu nhìn giữa những cây cột. Henry nhìn bạn và tự hỏi: “Nó tìm cái gì vậy?”, và nói với giọng chế giễu:
- John, làm cách nào mà cậu có vẻ rành nơi này quá vậy?
John là bạn thân nhất của Henry. Thật ra, chúng có thể coi là không bao giờ rời nhau. Nhưng khi John tỏ ra biết một số vấn đề mà cậu không biết, Henry khó giấu được sự bực dọc. Và việc này thường xảy ra khiến cậu không muốn thú nhận sự dốt nát của mình, dù với chính bản thân.
- Cậu nói rằng tớ biết rành à, về cái gì chứ? – John càu nhàu.
- Về ngôi nhà này và về Râu Đen. – Henry đáp trong lúc đến lượt cậu đưa đầu vào giữa hai cây cột.
Rồi cậu nói thêm khi thích thú nghe giọng nói biến đổi giữa những cây cột này:
- Ai bảo với cậu rằng hải tặc Râu Đen đã sống ở đây?
John đáp lại và nhấn mạnh từng từ một:
- Tớ biết điều này từ rất lâu rồi! Và tớ cũng biết ngôi nhà này xưa kia được xây dựng như thế nào khi nghe người ta kháo nhau ở ngoài đường. Cậu không có nghe sao? Nhung điều khiến tớ ngạc nhiên hơn cả mà cậu không biết là chính hải tặc Râu Đen đã xây dựng quán “Đầu Heo Rừng” này!
Herry đành nói dối:
- Có chứ, tớ biết điều này mà. Cậu cho tớ là thứ người gì hả? Một tên ngu dốt phải không?

Cậu nhìn John một lúc. John ngồi xổm xuống, tay bóp nát một mảnh thạch cao.
- Cậu tìm gì thế? – Henry hỏi.
- Một vài vật. – John đáp nhưng không đứng lên. – Giáo sư sử học Allan dạy lịch sử có nói với tớ rằng người ta tìm được rất nhiều vật đáng quan tâm trong những ngôi nhà cổ như ngôi nhà này, khi phá bỏ chúng.
Henry lại đi quan sát nhiều lỗ hổng trong tường.
- Trò đùa! – Henry lẩm bẩm.
Tuy vậy, trong lòng cậu cũng rất xúc động. Cậu không rút đầu ra khỏi hai cây cột, đi dọc tường quỳ gối xuống, luồn qua một cái lỗ hổng mà John vừa bỏ đi, tìm trong đống gỗ mục nát nhưng không tìm được gì cả.
- John, tớ chẳng tìm thấy gì cả! – Cậu bé rên rỉ.
- Tiếp tục tìm đi!
Sau vài giây im lặng, Henry chợt kêu lên:
- Xem này, John!

Cậu ngồi ngay xuống đất, quan sát vật vừa tìm được. Đó là một vật nhỏ màu vàng, đường kính độ bằng một đồng đô la bạc.
- Cậu tìm thấy cái gì vậy? – John hỏi.
- Cái này!
John chạy đến ngồi xuống cạnh bạn:
- Đó là một loại ảnh tượng đeo ở cổ. – Henry vừa nói vừa chìa ra cho John xem.
John đứng lên, chạy đến cửa sổ. Henry theo sau. John mở to mắt vì tò mò hơn là ngạc nhiên.
- Ồ! Ồ! – Cậu bé hồi hộp nói nhỏ. – Cậu tìm thấy nó ở đâu vậy?
Henry cười hãnh diện rồi cố tình che đậy bằng cách uể oải nói: (…)
- Cậu có thể nói là cậu gặp may rồi đấy!
- Theo cậu thì là cái gì vậy? Một ảnh tượng đeo ở cổ hả?
- Không! – John lầu bầu. – Đó là một đồng tiền… một đồng tiền cổ.
Cậu bé quay sang bạn, nói tiếp:
- Cậu muốn tớ cho biết ý kiến riêng của tớ không? Tớ có cảm tưởng đó là một đồng tiền vàng Tây Ban Nha cổ. Chúng ta sẽ đi hỏi giáo sư Allan. Chắc chắn ông ta sẽ biết nó là cái gì. Cậu có thấy không, Henry? Đồng tiền này có thể của Râu Đen!
Nói rằng Henry lấy đồng tiền từ tay John là dùng không đúng từ. Vì cậu bé vội giật lấy và nói:
- Đưa tớ xem nào! Có thể còn hàng trăm đồng tiền như thế này ở tại đây.

Cậu bé cho đồng tiền vào trong túi. Nhưng John lại đã lại bắt đầu bò đi lục tìm từ bức tường này sang bức tường khác, từ lỗ hổng này sang lỗ hổng khác để tìm một kho báu.
Henry vội vàng bò theo bạn. Cậu vừa thọc sâu tay xuống dưới lớp bụi của sàn nhà vừa hỏi:
- Cậu có nghĩ rằng sẽ tìm được những đồng tiền khác nữa hay không?
Giọng John đáp lại từ xa:
- Cậu nói gì, tớ không hiểu?
Henry nói lớn hơn:
- Tớ nói là cậu có nghĩ rằng sẽ tìm được những đồng tiền vàng nữa không?
- Có lẽ thế.

Chúng làm việc như những con chuột chũi bị đói. Chúng đào bới, sục sạo làm dấy lên hàng đống bụi dày, khuấy động đống đất đá, xem xét tỉ mỉ từng xó xỉnh, khe rãnh nơi mà mắt con người có thể nhìn thấy được từ hơn hai thế kỷ qua. Chúng cực nhọc len lỏi trong những hầm hố mà những người công nhân phá hủy ngôi nhà đã tạo ra trong khi bốc những lớp trang trí mới thực hiện vài chục năm gần đây. Chúng tự tạo một con đường qua những đống rác rưởi và thường chúng phải xé bỏ những tấm mạng nhện dày như những bức màn thực thụ.
-Nào, nhanh lên đi. – Henry sốt ruột nói, – Cậu không muốn xem những gì tớ đã tìm sao hả?
- Có chứ! – John đáp với vẻ như muốn nói. – Cậu thật là phiền quá đi!
Cậu đi theo sau Henry vào trong hành lang vừa cố làm ra vẻ không thấy quan tâm. Thình lình cậu dừng lại, cúi xuống, mân mê sợi dây giày, mặc dù chúng đã được buộc chặt tử tế. Henry chờ bạn, càng lúc càng sốt ruột. Đứng trên ngưỡng cửa vào phòng chính, cậu nhìn John vẫn đang nghiêng mình tiếp tục buộc dây giày.
- Đến đây… Đến đây đi mà! – Cậu bé giận dỗi nói. – Cậu sẽ lo buộc dây giày sau!
Tuy nhiên John làm như không biết rằng bạn mình càng lúc càng nổi giận, vừa làm bộ thắt nút dây giày, cậu đã có một ảo giác lạ thường. Cậu nhìn thấy Henry đang quỳ gần một trong những chiếc hòm mà những hải tặc cất giấu kho tàng.Chiếc hòm này gần những đồng tiền vàng và làm rơi ra từ những kẽ tay hàng trăm đồng tiền lấp lánh!

Bị ám ảnh bởi ảo giác đó, John đứng thẳng người lên, lòng tràn đầy một nỗi buồn mênh mông. Cậu nhận ra rằng Henry đã thật sự khám phá ra một cái gì đó và e sợ sẽ chứng kiến một điều tệ hại hơn, cậu không dám hỏi vật tìm ra là cái gì. Đầu óc đầy những ý nghĩ không vui lê chân tiến đến.
- Nào, cái cậu tìm thấy là cái gì vậy?
- Một cánh cửa… Cuối cùng, phải, một cánh cửa.
- Nếu như cậu ấy muốn mình sập bẫy, thì lầm rồi!
Đúng lúc đó, giọng nói của Henry vang lên, thành thật và thôi thúc:
- Nhanh lên nào John! Cậu phải nhìn thấy cái này. Thật tuyệt!
Đến lượt John chui vào những mảnh ván. Cậu bé có cảm tưởng trên mình là một mái nhà rất nghiêng. Henry chờ đón cậu với một vẻ chiến thắng:
- Tớ đã nói gì với cậu hả? Không phải là một cánh cửa mà là một lối đi vào. Nhưng tớ không nhìn lầm phải không nào?
John mở to mắt lắp bắp: (…)

Hai cậu bé bò đến gần lối đi vào. Quỳ gối cạnh nhau ở bậc cửa, chúng nhìn vào một cầu thang xoắn ốc tối om. Chúng nhìn thấy những bức tường, những nấc thang, một trần nhà nơi những tảng đá trơn và xám phủ một lớp rêu xanh. Chúng cũng nhìn thấy một bức màng nhện te tua phủ xuống từ trần nhà này.
Không khí bụi bậm và ẩm thấp. Những luồng không khí lạnh lẽo nhẹ nhàng bốc lên từ hướng hai cậu bé và có tiếng nước rơi từng giọt.
- Đây chắc chắn là lối đi bí mật của hải tặc Râu Đen, - John thì thầm.
- Chắc chắn là như thế. – Henry đáp và nở một nụ cười tinh quái. – Tớ mong rằng lần sau cậu sẽ tin khi tớ nói với cậu rằng tớ đã tìm ra cái gì đó!
John đứng lên nhưng chỉ lom khom thôi vì sợ đụng vào những tấm ván trên đầu. Và làm như không nghe điều mà bạn cậu vừa nói, cậu nói khi bước xuống bậc thang thứ nhất:
- Tớ tự hỏi con đường này đưa đến đâu?
- Tớ cũng vậy. – Henry lơ đãng đáp.
Rồi khi nhận thấy John đã bắt đầu đi xuống cầu thang cậu cũng đứng lên.
- Cậu muốn đi xuống thật sao?
- Sao lại không chứ? Còn cậu?
- Không bao giờ!

Đến lượt John cười phá lên nói:
- Cậu sẽ không nói rằng cậu sợ chứ?
Henry tỏ vẻ tức giận, phản đối;
- Tớ mà sợ à?
- Nếu không sợ thì chúng ta cùng xuống bên dưới. Chúng ta sẽ thấy rõ xem nó có đáng quan tâm không?
Lấy hết can đảm Henry qua mặt John, nhảy bốn bậc thang một đi xuống. Bỗng cậu khựng lại, nhíu mày, khuôn mặt căng thẳng nhìn trong bóng tối. Chợt cậu quay lại, leo bốn bậc thang một và nói:
- Đúng như cậu nghĩ!
- Có chuyện gì vậy Henry? – John hỏi.
- Tối đen như một cái giếng ấy, không thấy gì cả.
- Cậu có mẩu nến, còn tớ có bao diêm.

Henry thành thật tiếc rằng cậu đã tìm ra cái cầu thang chết tiệt. Vì cậu không sợ hãi mà chỉ thận trọng. Cậu không bao giờ thích những nơi phủ đầy bóng tối. Còn về John, cậu rất thích bạn mình và xem như là người bạn thân nhất. Nhưng John luôn luôn đưa đến cho cậu những thử thách. Và cậu chính là chúa trùm về công việc này! Cũng như lần này đây cậu muốn cả hai phải xuống cầu thang tối như chui xuống hang chuột chũi này. Tại sao có loại người hay chõ mũi vào một nơi, không ngừng thử giải quyết mọi vấn đề như thế nhỉ. Henry miễn cưỡng lôi từ túi bên phải ra mẩu nến và đồng thời cậu cũng muốn kiểm tra xem đồng tiền có còn ở trong túi nữa hay không.
- Chắc là không cháy, nó cũ quá rồi. – Cậu nói khi chìa mẩu nến vàng và hết sức mong rằng sẽ đúng như cậu nói.
John chờ đợi, túi diêm trong một tay. Và tay kia cầm một que với ngón trỏ và ngón cái sẵn sàng bật lên.
- Hãy dốc ngược đầu lên cho bấc nằm ở dưới. – Cậu ra lệnh. – Tớ đốt nó đây.
Khi que diêm được đốt, cậu đưa ngọn lửa gần bấc nến. Trước hết một chùm tia lửa bốc lên… rồi sau một thời gian hai trăm năm trong bóng tối và giá lạnh mẩu nến kêu tí tách và bùng lên. Nó không tạo ra một ngọn lửa dịu dàng và rõ như nến hiện đại. Nó bốc khói và phát ra một ánh sáng yếu ớt và hăng hăng mùi lưu huỳnh. Hơn nữa nó chảy và xông đầy mũi bọn trẻ mùi mỡ bị đốt cháy. Cuối cùng nó dội lên trần nhà, chung quanh tường một thứ ánh sáng khi rõ khi mờ chập chờn khóe lên không khí trở nên nặng nề, ấm cúng đáng sợ.

Henry hầu như đờ đẫn vừa nhìn ngọn lửa vừa nghĩ: “Dĩ nhiên, sáng còn hơn không”.
Cậu bé lớn tiếng nhận xét:
- Không tốt lắm phải không?
- Ừ. – John thừa nhận. –Nhưng nó vẫn cháy. Điều cần thiết là vậy.
Henry đưa mu bàn tay lên quẹt mũi, hít một hơi, rồi nhìn cầu thang, ít ra là đến khúc quanh đầu tiên.
- Nếu cậu muốn. – Henry đề nghị. – Tớ sẽ đi lấy đèn pin. Cây nến này không tốt, nó chắc chắn sẽ tắt ngấm thôi.
- Không đâu Henry, nó sẽ không tắt đâu. – John đáp lại. – Nó còn cháy tốt mà!
Sau một lúc im lặng, John nói:
- Cậu nghĩ gì vậy? Rằng tớ có ý định xuống tận dưới đó à? Không đâu, tớ chỉ muốn xuống một vài bậc thang là đủ rồi.
Henry nhíu mày:
- Nghe này, John. Tớ chỉ cần hơn năm phút để đi lấy cây đèn pin. Nó sẽ .chiếu sáng tốt hơn cây nến này, hơn nữa bố tớ cũng mới vừa thay pin
- Được. Nhưng cậu không biết rằng, nếu cậu về nhà mẹ cậu sẽ tìm ra một việc gì đó bắt cậu làm. Còn tớ, tớ sẽ phải chờ ở đây à?

John ngừng một chốc và nói thêm:
- Henry, cậu biết đấy, tớ hoàn toàn không muốn đi xuống cầu thang này một mình. Còn nến thì tớ chắc chắn đủ cho cả hai chúng ta.
Ánh mắt của cậu bé có vẻ van lơn khiến Henry nhớ đến đôi mắt của con chó Butch của cậu.
Điều đang chi phối Henry là một phần cậu e rằng nếu cậu trở về nhà sẽ bị mẹ cậu giữ lại, một phần này nặng hơn. Nó có cảm tưởng rằng John cần cậu. Không phải lúc nào cũng có đồng loại cần đến sự giúp đỡ của cậu, hầu như là sự bảo vệ của cậu. Đặc biệt là John có vẻ như không bao giờ cần ai. Do đó Henry tự cảm thấy mình rất quan trọng và vô cùng được vuốt ve.
- Nào, Henry, ta đi thôi! – John lại nói với ánh mắt van lơn.
Hầu như sự hăng hái luôn thắng thế khi nó được sự vuốt ve động viên. Và Henry cuối cùng cũng thực hiện những gì John chờ đợi cậu như mọi khi.

 

Chương 5

Chiếc cầu thang có vẻ như xuống thấp thẳng đứng trong lòng đất. Henry đi sau John và đi sát vào người bạn. Cậu đặt một tay đặt lên vai bạn và tay kia chống vào những phiến đá lạnh lẽo nhẵn bóng như tìm kiếm điểm tựa. Hai đứa trẻ lặng lẽ xuống từng bậc thang. Những tiếng động bên ngoài, Tiếng xe chạy trong đường bên cạnh xa dần rồi trở nên càng lúc càng yếu đi. Không bao lâu John và Henry chỉ còn nghe những tiếng giọt nước. Dần dần chúng nó có cảm giác bị bao trùm bởi một tấm chăn ướt.
Thình lình Henry hét lên, đập lên ngực, lên gáy, vặn vẹo người, giậm chân. Do không thấy trên tường một mạng nhện đầy bụi bặm cậu đã thọc tay vào. Một con vật đen, có nhiều chân đã chạy trên cườm tay, leo lên cánh tay và chui vào cánh tay ngắn của áo sơ mi.
- Gì vậy Henry? Cậu suýt làm tớ đánh rơi cây nến!
- Một con nhện hay một con vật khác tớ không biết nữa, đã bò dọc cánh tay tớ! Nào John chúng ta hãy bỏ đi!
- Nó đi chưa?
- Rồi, tớ nghĩ là vậy.
- Vậy thì đừng nghĩ đến nó nữa, thế thôi.
- Ồ, không! Tớ sẽ bỏ đi. – Henry nói với giọng hết sức bình tĩnh, lạ lùng không muốn cho ai bàn cãi gì cả.
John hầu như muốn làm theo lời bạn, khi cậu bỗng có một sáng kiến. Cậu nhìn nhanh về phía độ dốc đáng chóng mặt của chiếc cầu thang.
- Khoan đã, Henry, nhìn kìa!

Henry đã bắt đầu đi lên cầu thang bỗng quay lại.
- Cái gì vậy?
- Chính lúc cậu la lên tớ đã định nói với cậu. Nhìn xuống dưới kia đi!
- Đâu? – Henry vừa nói vừa chỉ xuống bậc thang. - Tớ chẳng thấy gì cả.
- Kia kìa. – John nhấn mạnh, vừa che ánh nến vừa hất hàm chỉ chân cầu thang.
Henry vươn cổ ra.
- Tớ không hiểu, John… Hình như trong cái hầm này có ánh sáng. Làm sao mà…
- Tớ không biết. Theo cậu chúng ta đang ở độ sâu bao nhiêu hả?
Không chờ Henry trả lời, John cương quyết lao nhanh về phía trước.
Henry kêu to:
- Đừng bỏ đi như thế! Cậu mang nến theo, tớ phải thấy chỗ đặt chân để đi chứ!

Mặc dù không còn cần đến nến Henry vẫn thận trọng khi bắt đầu xuống cầu thang lại. Đồng thời cậu cũng tiếp tục phản đối “những kẻ có nến mà bỏ rơi bạn bè trong bóng tối”. Cậu nghe tiếng bước chân của John bỗng nhiên thay đổi nhịp điệu, chuyển sang một chuỗi tiếng trượt để rồi cuối cùng là một tiếng kêu cố nén lại.
Henry há hốc mồm một lúc rối thì thầm hỏi:
- Xảy ra chuyện gì vậy?
Bây giờ trừ tiếng nước nhỏ giọt và tiếng còi xe cấp cứu từ xa, cậu không còn nghe gì nữa cả. Bỗng cậu thét lên và cử động mạnh.
- John! John!
Để đi nhanh hơn, cậu tóm bàn tay phải vào cây trụ giữa cầu thang và hầu như buông mình trượt xuống dưới sâu.
John cũng có lẽ đang chờ cậu. Tiếng báo động vang dội các bức tường:
- Coi chừng các bậc thang!
Nhưng đã quá muộn, Henry, thật sự đã lao vào căn hầm bí mật của hải tặc Râu Đen. Cậu va mạnh vào John vì không kịp né sang một bên nên hai đứa trẻ cùng nhau lăn ra đất.
John là đứa đầu tiên tách được ra. Cậu đứng lên và nhìn Henry vẫn còn ngồi bóp cùi chỏ.
- Cậu điếc đặc rồi hả? Cậu không nghe tớ hét lên bảo cậu coi chừng các bậc thang hay sao?

Henry lắc đầu mấy cái liền để tỉnh lại. Vừa bóp cùi chỏ bị đau, cậu vừa ném cái nhìn giận dữ về phía cầu thang.
- Cái bậc thang quỷ quái này làm sao vậy? Thật ngu xuẩn khi…
- Ngu xuẩn ư? – John ngắt lời. – Không phải là ý kiến của tớ đâu nhé.
Henry ngạc nhiên quay sang thằng bạn đang vờ quan sát trần nhà.
- Cậu muốn nói gì, John? Ở đó có một nấc thang cao gấp đôi những nấc thang khác! Mà cậu cho là không là ngu xuẩn ư?
Henry khinh khỉnh nói tiếp:
- Nếu như tớ đã đứng trong căn nhà này, tớ đã biết và không bị ngã như thế!
John bực bội phản đối. Nó chỉ bậc thang.
- Những nấc thang như cái này có rất nhiều trong những lâu đài ở châu Âu.
Henry mỉa mai:
- Những người vào thời đó, có lẽ là người hết sức ngu xuẩn! Chắc họ thích bị dập mặt mỗi khi đi xuống căn hầm của họ!
Cậu đứng lên đi đến cầu thang và đếm. Cậu nhận thấy cái nấc thang mà cậu đang đề cập tới là nấc thang thứ sáu từ dưới lên và thật sự nó cao gấp hai lần các nấc thang khác.

John tỏ vẻ khuất phục giải thích cho bạn nghe rõ ràng:
- Cậu hãy tưởng tượng rằng cậu đã sống ở đây hơn hai thế kỷ. Một ngày nọ, một tên cầm dao rượt đuổi theo cậu trong cầu thang này. Cậu thì biết nấc thang quái quỷ này, còn hắn, hoàn toàn mù tịt về nó. Lúc đó thì việc gì đã xảy ra? Nó trượt vào lao xuống. Còn cậu, cậu vẫn đứng vững. Cậu chờ nó trong hầm với một cây gậy hay vũ khí nào đó. Cậu thấy chưa? Họ không ngu như cậu nghĩ đâu.
Nói xong, John quay gót, trong khi bạn của cậu vẫn nhìn trân trân vào nấc thang. Một chút ánh sáng trong căn hầm đến từ ống thông gió hẹp được đặt ở giữa trần nhà. Nhờ vào lường ánh sáng này John bắt đầu lục soát khắp nơi.cậu phát hiện những sợi xích sắt nặng trịch có những chiếc vòng xây cố định trong tường. Chúng đã rỉ sét, phủ đầy bụi. Ở đầu mỗi sợi xích có một chiếc vòng sắt nhỏ.
- Nhìn cái này, Henry! – John kêu lên. – Khi tớ nói với giáo sư Allan chúng ta tìm thấy căn hầm này hay đúng hơn là cái ngục tối này, chắc chắn ông ấy sẽ chạy ngay đến.
Cậu bé đá vào các sợi xích.
- Chắc chúng dành cho bọn tù nhân… có lẽ là những người mà hải tặc Râu Đen bắt cóc để tống tiền.

Cậu bé đi đến gần ba cái hốc mà cậu đã nhận ra trong phần xa nhất và tối tăm nhất của phòng giam, vừa đi vừa vấp những mảnh vụn nằm lăn lóc trên mặt đất. Cậu dừng lại, quan sát những cánh cửa dày hé mở che khuất một phần hai con đường. Cánh cửa thứ ba bị rỉ sét và ẩm ướt làm long bản lề đã đổ từ rất lâu rồi.
Hai cánh cửa còn đứng vững có mang những ống khóa lớn hoặc đục thông phần trên khung cửa nhỏ hình chữ nhật có chấn song chắc chắn. Cả hai cánh cửa như được hàn dính vào tường bằng những mạng nhện đầy bụi.
John quay sang Henry. Henry đang quan sát những dây xích và nhất là mặt đất dưới các xích này. Câu vẫn mong tìm thấy một đồng tiền vàng thứ hai.
- Đây nhanh lên! – John nói. – Tớ đã tìm thấy những gian ngục thất.
Trong khi Henry đang đi ngang phòng giam, John đi vào một gian phòng chật hẹp. Ánh sáng của cái ống thông gió yết ớt hắt vào gian phòng nhưng cũng đủ để trông thấy không có gì đáng chú ý, trần của nó làm bằng vòm bằng đá thô. Tuy nhiên trong một góc, vữa đã bong đi, một tảng đá đã rơi ra. Nơi đó có một lỗ toang hoác và đen ngòm. Sau một lúc do dự, John thọc tay vào. Những ngón tay của cậu sờ nắn một vật mà ngay lúc đầu cậu nghĩ rằng đó là một con chuột chết đã khô cứng. Cậu lấy hết can đảm và cố chế ngự sự kinh tởm để không buông và kéo vật này ra ngoài. Thật là nhẹ nhõm khi cậu nhận ra đó là một cuộn giấy đã phủ đầy bụi.
- Henry! – John mừng rỡ thét lên. – Nhìn xem tớ đã tìm ra cái gì đây?

Cậu bé thận trọng mở cuộn giấy cứng như giấy bồi kêu dưới tay cậu. Nhưng Henry đã càu nhàu đi về phía cửa:
- Cậu tìm thấy một mảnh giấy! Trúng lớn rồi! Bây giờ, ta đi nào!
- Ồ, nó có vẻ cũ lắm… Có cả chữ viết lên đó nữa!
Cậu đẩy bạn sang một bên để đi ra trước khỏi xà lim và bước đến chỗ thông gió.
- Thật vậy sao? Có chữ viết hả? – Henry hỏi John và cẩn thận quan sát cuộn giấy.
- Phải, có chữ viết… Nhưng không rõ lắm!
Cậu mân mê mảnh giấy, trở qua trở lại trên tay. Cuối cùng cậu giải thích:
- Theo tớ nó không phải là giấy. Có lẽ là loại mà người ta thường dùng cho các bằng cấp… Một loại da thuộc, tớ nghĩ là vậy đó.
Hai đứa trẻ không nhận ra rằng từ vài phút căn xà lim càng lúc càng trở nên tốt hơn. Rồi thình lình ngay trên ống thông gió, những cây dù bị gió lay động mạnh. Đó là dấu hiệu báo một cơn bão. Môt tia chớp chạy ngang bầu trời. Từ xa tiếng sấm vang dội. Henry nhìn lên và nhận ra ở trên đầu ống thông gió những đám mây xám xịt. Tại sao mình lại để cho John thuyết phục đi đến đây nhỉ? – Cậu tự hỏi. – Tại sao cậu ấy muốn mình làm gì thì mình kuôn luôn phải làm theo nhỉ? Mình chỉ là một thằng ngốc, một thằng ngu si đần độn!
- Tớ đồng ý rồi, John, đó là da thuộc. Bây giờ, chúng ta chuồn thôi. Trời sắp mưa đến nơi rồi.

Đúng vào lúc đó, một con mèo xuất hiện nơi ngưỡng cửa xà lim. Nó giận dữ nhìn hai đứa trẻ, cất tiếng kêu với giọng con người đang cứu, một tiếng kêu như toát ra từ cả thân mình đen. mềm và mướt của nó. Liền ngay lúc đó là một tiếng sấm thứ hai, gần hơn nhiều. Không khí trong gian ngục thất trở nên lạnh. John và Henry đứng chết trận cách con mèo vài mét. Henry chợt rùng mình.
- Hình như là không thật. Cậu có thấy vậy không John?
Con mèo cong mình lên, qua những chiếc răng nanh dài và thẳng thoát ra một tiếng rít kéo dài. Rồi nó nhảy chồm tới như một mũi tên bay qua giữa hai đứa trẻ, thoát ra khỏi gian ngục thất lao về phía cầu thang và biến mất.
- Phù! – Henry thở phào ra. – Tớ không ở lại đây thêm một phút nào nữa.
- Nhìn qua ống thông gió kìa. – John đáp. – Cậu thấy là mưa đã bắt đầu thật mà! Ở đây ít ra chúng mình cũng có nơi trú mưa.
Và cậu lại quan sát mảnh da thuộc. John đưa mảnh da đến gần ống thông gió, nhưng cậu phải vội vàng đưa ngay đi để tránh những giọt mưa chảy dọc theo đường ống nhỏ xuống sàn nhà. Henry thèm thuồng nhìn ngắm cầu thang nơi con mèo vừa thoát ra.
- Lẽ ra chúng ta ít nhất cũng có thể lên đến tầng trệt. – Cậu đề nghị.
- Tại sao? – John hỏi.

Sau đó, vô tình Henry cũng trở thành nạn nhân của sự tò mò. Thật vậy, qua vai bạn, cậu bé cũng bắt đầu quan sát mảnh da thuộc. Cậu nhíu mày nhăn khuôn mặt đầy tàn nhang cực kỳ chú ý hỏi:
- Có phải cậu sắp có thể đọc được những chữ viết trên đó không?
John hít hít, chà mũi với mu bàn tay .
- Tớ nghĩ là tớ có thể.
Mực bị phai đi ở nhiều chỗ và có một màu rất lạ, những chữ viết đôi khi khó đọc được, chen lẫn một vài hình vẽ rất thô khiến người ta nghĩ đến những sơ đồ, những bản đồ hay những tư liệu huyền bí.
- Những chữ này là những lời do quỷ phán rằng …
Henry phì cười:
- John giỡn mặt tớ hả!
- Được tự cậu đọc đi!

Henry cúi xuống mảnh ra thuộc, rồi mở to đôi mắt ra, lùi lại như đối diện với một con rắn.
- Cậu… không nghĩ… – Henry lắp bắp. – Chúng ta phải để mảnh da thuộc này lại chỗ của nó sao? Còn tớ thì tớ sẽ làm như vậy… và sẽ không bao giờ nghĩ đến nó nữa.
Nhưng John không quan tâm đến những lời khuyên khôn ngoan ấy, cậu lại đến gần ống thông gió tuy nhiên cậu cẩn thận không đứng ngay phía dưới và bắt đầu đọc. Tuy nhiên lần này cậu đọc thầm, thỉnh thoảng còn tỏ ra ngạc nhiên.
Cuối cùng Henry phản đối:
- Cậu không bảnh chút nào hả John! Ít ra cậu cũng đọc lớn lên!
- Được như vậy tớ đọc đây: “Mong rằng những câu thần chú phù thủy của tôi khiến cho lời nguyền của của quỷ về …”
Cậu dừng lại.

Đoạn tiếp theo quá lộn xộn. Có thể đoán : “Eden và Robert May …” đại loại là như vậy.
Cậu chớp mắt, đưa mảnh da gần mặt hơn, đọc tiếp:
“…được viết bằng máu của tôi vào ngày mà tôi phải chết trên giàn thiêu …”.
Chữ ký khá rõ: “Quý bà Augusta Stowecroft… Ngày 6 tháng giêng năm 17…. Tôi nghĩ là năm 1719, nhưng không chắc chắn. Có những vết màu hơi đỏ, còn phần còn lại không hiểu được. những từ này viết như chữ viết của một mụ điên …”
Bỗng John ngẩng đầu lên, một ánh sáng xuất hiện trong ánh mắt.
- Henry… những chữ viết này là của một mụ điên, cậu có biết là gì không?
- Trời ạ, không.
- Những câu thần chú …phù thủy!
John bỗng đi qua phòng giam đi đến cửa xà lim vừa vung vẩy mảnh da thuộc ở đó rồi quay trở lại .
- Henry, cậu có nhớ không, năm vừa qua, trong giờ học môn lịch sử, giáo sư Allan đã bảo chúng ta rằng trong vùng chúng ta ở, cách đây nhiều thế kỷ người ta đã thiêu sống vài mụ phù thủy không?
Henry há hốc mồm không nói được một lời nào. Lúc đó John hăng hái nói tiếp :
- Đúng rồi, chính là như vậy. Giáo sư còn nói với chúng ta rằng đôi khi một người phụ nữ chỉ bị buộc tội phù phép cũng đủ bị thiêu sống .
- Phải… phải, bây giờ tớ nhớ ra rồi.
- Thật rõ là như ban ngày! Mảnh da thuộc này là do một mụ phù thủy viết và tớ sẵn sàng cược rằng nó đã nằm trong vách xà lim hơn hai trăm năm rồi!
- Cậu lại đùa nữa rồi John! – Henry nói,
Tuy nhiên, cậu cũng đến gần mảnh da thuộc và bắt đầu quan sát lại với một sự quan tâm mới.

John bỗng nảy sinh ý kiến mới và đập ngón tay trỏ lên mảnh da:
- Đây là câu giải đáp!
Henry lại tỏ vẻ không hiểu.
- Giải đáp nào?
- Sao mà ngốc thế hả! Chúng ta sẽ tổ chức một buổi biểu diễn... và chúng ta sẽ thu nhiều tiền đấy.
- Một buổi biểu diễn ư? – Henry càng lúc càng ngạc nhiên lặp lại.
- Cậu không hiểu sao?
Henry lắc đầu:
- Không.
Cậu chìa mảnh da thuộc ra.
- Có liên quan gì tới cái này?
- Liên quan gì ư ? – John kêu lên. – Liên quan đến tất cả!

Sau khi cẩn thận cuộn mảnh da lại, John giải thích:
- Phải có một căn phòng tối, một người nào đó bị kích thích quá độ, và nói chuyện với các linh hồn đang…
Sự lo âu phủ lên gương mặt của Henry. John vẫn hào hứng tiếp tục:
- …Từ từ xuất hiện và…
- Ai xuất hiện, John?
- Dĩ nhiên là những hồn ma.
- Những hồn ma thật à? Cậu đùa với tớ đấy hả!
- Dĩ nhiên không phải là những hồn ma thật rồi, nhưng mà người ta chỉ thấy những cái bóng. Bây giờ cậu có định nín cho tớ nói không? Cậu có muốn tớ giải thích đến nơi đến chốn cho cậu nghe không?
- Nói đi.
- Vậy thì, những linh hồn xuất hiện, người ta nghe những tiếng động lạ phi thường…

Henry nhìn John đôi mắt hoảng hốt. John bỗng ngừng nói một lúc rồi bắt đầu nói tiếp:
- Phải làm việc này, Henry! Phải làm thôi! Cậu cũng biết bọn con nít thích những chuyện về hồn ma. Chuyện của chúng ta là những câu chuyện hay nhất. Và phải nghĩ đến số tiền mà chúng ta gặt hái được.
John đưa mảnh da về phía Henry, khiến cho Henry lùi lại thật nhanh và suýt ngã do vướng chân vào một sợi dây xích bị đính vào tường.
- Cậu biết không Henry, chúng ta có thể dùng một vài trò ảo thuật mà tớ làm khá tốt đấy! Thí dụ như làm cho một mảnh vải tự đứng thẳng lên tường. Cậu nghĩ sao?
- Không nghĩ gì cả … – Henry thều thào nói vừa nhìn chằm chằm vào mảnh da thuộc và vừa đi lùi lại, lần này nó lùi về phía cầu thang. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu như một con ma thật xuất hiện?
Đúng lúc đó một tiếng sấm thứ ba vang dội ngay trên ngôi nhà. Henry giật bắn lên. John đá vào trong một tảng đá thô nằm rải rác trên mặt đất và đáp lại với một giọng khinh khỉnh:
- Nào Henry, cậu thật sự không tin vào những hồn ma sao? Ngay cả những buổi thông linh gọi hồn thật nữa sao, tất cả đều là giả, tất cả chỉ là trò đùa. Bố tớ đã bảo như vậy. Thực ra chỉ là những trò ảo thuật cũng như chúng ta vẫn làm chơi với nhau.

Henry có vẻ bị thuyết phục.
- Tớ không biết … – Cậu lặp lại.
Chính lúc đó con mèo ướt sũng nước mưa lại xuất hiện một lần nữa trong cầu thang. mắt nó phóng những tia chớp và từ cổ họng của nó phát ra những tiếng kêu hận thù chát chúa. Henry tựa lưng vào bức tường lạnh và ẩm ướt.
- Cút đi! – John hét lên và hốt một nắm đá vụn ném về phía con mèo.
Nhưng nó không cử động, nó chỉ đáp trả bằng cách rít lên những tiếng kêu dữ tợn chỉ riêng của nó. Sau đó nó quay lại trở lên cầu thang và biến mất như lúc ban đầu.
- Tớ mong rằng con mèo này để chúng ta yên. – Henry tuyên bố. – ngục thất này đã quá ảm đạm rồi. Còn riêng tớ, tớ rất ghét mèo!
- Chà, bỏ qua chuyện ấy đi. – John nói. – Nên nói về buổi thông linh gọi hồn của chúng ta thì hơn!
John trở lại phía ánh sáng, có nghĩa là phía ống thông gió vừa thu xếp để không bị ngấm nước mưa đang rơi xuống đọng thành vũng trên mặt đất. Cậu ngẩng đầu lên quan sát bầu trời một lúc cậu bất thần quay lại đối diện với Henry.
- Cậu biết tớ đang nghĩ gì không? Chúng ta phải có một bàn xoay… một cái bàn có thể tự nó bốc lên như bị điều khiển bởi một hồn ma! Và trong việc đó chúng ta sẽ sử dụng mảnh da thuộc này… những câu bùa chú và phần còn lại!
Henry nhìn chăm chú bạn mình với một vẻ sợ hãi càng lúc càng tăng.
- Quỷ thần ơi, cậu điên rồi đấy, John! Cậu sẽ không làm điều đó chứ? Dù sao cũng đừng nghĩ đến tớ sẽ giúp cậu đâu nhé!

Henry chỉ mảnh da thuộc nói tiếp:
- Có thể là một mụ phù thủy thật sự đã viết trên đó những câu bùa chú này, cậu hãy tưởng tượng rằng chúng… có thể thực hiện được! Thì điều gì đã xảy ra nào?
- Henry, chúng ta không thể không thể không sử dụng mảnh da thuộc này. Cậu muốn gì nào? Phá hủy kế hoạch của chúng ta ư? Ồ! Tớ biết những gì viết trên đây làm cho cậu sợ.Nhưng đó chỉ là những chữ rời rạc thôi. Còn về hình vẽ. Một đứa trẻ con cũng có thể vẽ. Hơn nữa, nghe tớ nói đây, tớ nhắc lại cho cậu hiểu rằng bố tớ bảo sự thông linh gọi hồn chỉ là trò đùa. Và bố tớ rất hiểu những gì bố tớ nói. Ông đã thực sự tham dự vào một buổi lễ thông linh với mẹ tớ.
- Mẹ cậu cũng bảo chỉ là một trò đùa thôi sao?
- Ơ… không chính xác là như vậy.
- Còn bố tớ thì dám bảo rằng quán rượu cổ này có ma. Và cũng như bố cậu, bố tớ cũng biết những gì ông ấy nói. Maynard đã có lần thuê bố tớ sửa chữa tòa bộ ống dẫn nước trong gian phòng chính, trong các phòng khác, khắp nơi. Thế mà không có một ống nước nào bền được đến vài tuần.
- Kìa, Henry. Giữa việc sửa ống nước và những hồn ma có gì trùng hợp đâu? Ngay cả khi chấp nhận rằng có những hồn ma ở đây. Cậu không tưởng tượng được rằng chúng ta có những phương tiện khiến họ trở lại sao? Chúng ta chỉ làm một buổi biểu diễn đùa vui cho bạn bè. Chúng sẽ rất vui. Cũng nên nghĩ đến số tiền chúng ta sẽ thu được.

Henry bắt đầu bĩnh tĩnh lại. Cậu chậm chạp nói:
- Dù sao, có thể nó cũng sẽ suôn sẻ…
- Dĩ nhiên là nó sẽ tốt thôi!
John đến một chỗ còn khô ráo gần xà lim nơi mảnh da thuộc được phát hiện, cậu quỳ xuống đối diện với ánh sáng. Trong tư thế đó cậu quay lưng lại lối vào xà lim.
- Đến đây Henry. Tớ sẽ chỉ cho cậu.
John mở mảnh da thuộc, trải nó trên sàn và giữ nó với vài viên đá thô phủ lên và vài mắt xích sắt rỉ sét.
Henry do dự, run từ đầu đến chân, cậu tiến đến với bước chân xiêu vẹo và vụng về đến gần bạn. Cậu nhìn vào mảnh da thuộc và gậm nhấm móng tay cái và rên rỉ:
- John, nếu điều gì sẽ xảy ra cho chúng ta. Chúng ta có thể nói rằng đáng đời chúng mình lắm đó!
- Đồ hèn!
- Tớ mà hèn à? – Henry cực lực phản đối.
- Được, được rồi. Cậu đừng nhúc nhích nữa được không? Tớ sẽ vẽ lại các hình vẽ kỳ lạ này và đọc những câu thần chú. Như thế cậu sẽ biết mình phải làm gì khi chúng ta thực hiện buổi diễn.
Henry phật ý cúi đầu, nhét ngón tay vào lỗ tai và nghi ngờ nhìn John vẽ những dấu hiệu bằng ngón tay trỏ trong lớp bùn dày đặc màu xanh phủ lên sàn nhà.
- Cậu vẽ đường này quá cong queo. – Henry nói với một giọng đầy uy quyền. Nó phải thẳng hơn nữa.
- Không quan trọng! – John giải thích. – Không cần hoàn toàn giống đâu như tớ đã nói với cậu, tớ chỉ đơn giản muốn chỉ cho cậu cách mình sẽ tiến hành buổi biểu diễn thôi.
- Trong trường hợp này, – Henry thở dài. Nó hài lòng vì đã ghi được điểm. – Ít ra hình vẽ của cậu phải thực hiện thật giống.
Nhưng John đã không quan tâm đến nhận xét của bạn. Cậu bắt đầu đọc lâm râm những bùa chú ở phía dưới mảnh da thuộc.
- Aum… aum… aum… Mananan… Verlum… so… fohat… kaliyoug!… aum… aum, aum… Mananan Verlum fohat kaliyoug!

John dừng lại, nhìn Henry:
- Khi có liên quan đến một người đã khuất từ rất lâu, dường như phải…
Cậu đưa mắt nhìn chữ ký trên mảnh da thuộc khi đã tìm thấy rồi cậu bắt đầu lâm râm khấn vái:
- Bớ quý bà Augusta Stoweccraft, hãy đến với chúng tôi, hãy đến với chúng tôi đây… hãy đến với chúng tôi…! Aum… aum… aum… mananan verlum!…”
Mặt Henry đã hoàn toàn tái nhợt, cậu cắt ngang lời John.
- Đủ rồi! Tại sao cậu lại khấn cái tên này ư? Đó là cái tên như mọi cái tên khác!
Cậu nhắm mắt lại, tiếp tục đọc lầm rầm câu thần chú.
Trong lúc John lặp đi lặp lại : “Aum… aum…” một hiện tượng lạ xảy ra sau lưng cậu và Henry. Môt loại sương mù trắng nhợt nhạt, như một đám mây tựu lại nơi lối vào xà lim, trong khung cửa. Đám sương mù trắng phút chốc chuyển sang một khối đen trong suốt, nhầy nhụa, vặn vẹo, và cuối cùng vẽ thành hình dáng một bà lão còng lưng dơ bẩn. Bà ta có một mái tóc dài xõa xuống vai và quanh khuôn mặt hốc hác không có chút thịt. Bà ta mặc một loại vải mỏng tối và dài, bị rách, ẩm ướt. Phần dưới tấm áo có vẻ như bị lửa đốt cháy sém. Trên cổ bà ta có treo lủng lẳng một mảnh gỗ trên đó có thể đọc được dòng chữ: “Phù thủy - cầu thượng đế thương xót cho linh hồn bà ta”.
Bà ta tựa một tay trên một cây gậy. Với bàn tay kia đưa ra với những móng tay quặp xuống về phía hai đứa trẻ, trong khi bà ta nhích từng bước nhẹ như lướt đến gần chúng.
John bắt đầu chán ngấy, tuy nhiên cậu tiếp tục lặp lại:
“Aum… aum…aumma… verlum…”
Bầu không khí lúc này lạnh như băng. Trong ống thông thông gió, gió rít lên những tiếng rên rỉ, than van. Cánh cửa một xà lim chuyển động nhẹ nhàng, những bản lề kêu lên.
- Thôi đủ rồi, John. – Henry bực dọc ra lệnh. – Tớ đã hiểu rồi. Đừng nhọc công vô ích.

John mỉm cười nhìn bạn:
- Sao, cậu thấy thế nào ? Tớ đã làm những gì phải làm có đúng không nào?
Herry nắm lấy tay bạn giúp John đứng lên.
- Tớ nghĩ rằng cậu quá… xuất sắc. Bây giờ thì đi nào. Tớ đã ở cạnh cậu như cậu đã yêu cầu tớ và tớ đã nghe cậu cho đến cùng. Chúng ta hãy đi về. Tớ không còn chịu được nữa!
John nhặt mảnh da thuộc lên và cuốn lại.
- Cậu thấy không, Henry, tớ đã không lầm. Không có chút ma thuật nào trong tất cả những thứ này.
Bỗng ngay trên ống thông gió, một tia chớp lóe lên và đồng thời một tiếng nổ to vang dội khiến hai đứa trẻ sợ hãi vấp ngã, quỳ gối cạnh nhau trên sàn nhà.
- Cậu có nghe không? – John nói. – Tiếng nổ gần quá!
Cậu bé chưa nói dứt thì Butch, con chó của Henry xuất hiện ở chân cầu thang, lưỡi nó kéo dài và vẫy đuôi mừng. Butch đã theo sát ông chủ nhờ vào dấu chân. Khi Butch nhìn thấy con mèo Diablo của mụ phù thủy ẩn trong một góc tối, nó lao về phía đó và sủa lên khinh bỉ. Con mèo len lỏi giữa hai đứa bé. Butch trượt chân chân mặt đất ẩm ướt, mất thăng bằng. Cuối cùng nó va vào chân Henry. Diablo lợi dụng lúc đó để nhảy về phía cầu thang và biến mất. Butch quay lại và vẫn trượt lướt, nó lao vào và tiếp tục đuổi theo con mèo vừa sủa inh ỏi.
- Trời đất ơi! – John la lên.
Và Henry theo sát chân nó lao vào cầu thang. Cả hai cùng đến trước cửa chính của quán rượu. Chúng chạy đến cửa ra bên ngoài. Qua màn mưa nhè nhẹ bay. Những tiếng kêu của con mèo và tiếng sủa vang lên càng lúc càng xa.

 



.:: Trang chủ ::.
>>Tag :
Online: 1 / 3
C-STAT