Pair of Vintage Old School Fru
Game mobi, avatar, phần mềm miễn phí
HOME GAME MP3
>>Kho Game Online 2013
>>Hot Clip Cựt Hay 2013
>>Kênh 18 Cập Nhật
I love you baby (Spandex)
>>Admin : Chào mừng bạn đến với wapsite http://giaitrionline.sextgem.com Trang giải trí hoàn toàn miễn phĩ hàng đầu vn.Chúc Bạn Online Vui vẻ...!
Thế giới giải trí trên mobile
>>Game Cập Nhật 24h...
Truyện ma

 

Chương 5

KINH CHIỀU

Thăm phần còn lại của tu viện.
William đi đến vài kết luận
về cái chết của Adelmo.
Cuộc nói chuyện với Sư huynh ngành kính
về kính đọc sách và những bóng ma
cho những ai tìm đọc quá nhiều

Lúc ấy, chợt nổi lên hồi chuông báo Kinh Chiều, các tu sĩ bèn sửa soạn rời bàn làm việc. Malachi nói thẳng rằng chúng tôi cũng phải đi xuống. Ông ta sẽ phải ở lại với viên phụ tá Berengar để dọn dẹp đồ đạc và sắp xếp lại thư viện. Thầy William hỏi xem ông ta có đóng cửa không.
- Không có cánh cửa nào từ nhà bếp và nhà ăn ngăn không cho vào phòng thư tịch, hoặc từ phòng thư tịch ngăn không cho vào thư viện. Lệnh cấm của Tu viện trưởng phải mạnh hơn bất kỳ cánh cửa nào. Các tu sĩ cần dùng cả nhà bếp lẫn nhà ăn cho đến Kinh Tối. Đến khi đó, để ngăn những người ngoài hay súc vật vào Đại dinh, tự tay tôi sẽ khóa các cửa phía ngoài dẫn vào nhà ăn hay nhà bếp, và từ giờ đó trở đi, không ai được léo hánh đến Đại dinh nữa.
Chúng tôi xuống lầu, khi các tu sĩ trực chỉ về phía ca đoàn. Thầy tôi bảo Chúa sẽ tha thứ cho chúng tôi tội không dự Thánh lễ, và đề nghị tôi đi dạo với thầy một lát trong khuôn viên để làm quen với địa thế ở đây.

Thời tiết xấu đi. Một cơn gió lạnh nổi lên, sương mù giăng dày đặc. Thấp thoáng bóng mặt trời lặn bên kia khu vườn rau. Ở phía đông, trời đã sụp tối. Chúng tôi đi về hướng đó, men theo khu ca đoàn của nhà thờ đến phía sau khu đất. Hầu như sát với bức tường ngoài, tại nơi giáp với ngọn tháp phía Đông của Đại dinh, là chuồng heo. Những người nuôi heo đang đậy cái vại lớn đựng tiết heo. Chúng tôi để ý thấy phía sau dãy chuồng heo, bức tường được xây thấp hơn. Do đó, người ta có thể nhìn qua nó được. Bên ngoài bức tường thẳng đứng, mặt đất lao xuống, được bao phủ bởi lớp cát bụi rời rã mà tuyết không lấp hết được. Tôi nhận ra đây là đống bụi rơm cũ bị ném ra ngoài tại khúc tường này và cuốn dạt đi cho đến khúc ngoặt bắt đầu con đường mòn mà chú ngựa Brunellus đã đi. Trong các chuồng ngựa kế bên, các người chăn ngựa đang dẫn ngựa đến máng ăn. Về phía trái, quay lưng về khu ca đoàn, là dãy nhà của các tu sĩ, và dãy nhà xí. Tại nơi bức tường phía Đông quay về hướng Bắc, ngay tại góc vòng đai đá, là lò rèn. Những người thợ rèn cuối cùng đang hạ đồ nghề xuống, dập lửa, để sửa soạn đi lễ. Thầy William tò mò đi về hướng một góc lò rèn, hầu như tách biệt hẳn khỏi khu làm việc, nơi một tu sĩ đang cất dọn đồ đạc. Trên mặt bàn của ông có một bộ sưu tập các mảnh thủy tinh xưa bé tí có nhiều màu sắc rất đẹp: còn các loại lớn hơn được gắn lên tường. Trước mặt ông là một chiếc hộp đang làm dở, mới hình thành bộ khung bằng bạc. Nhưng trên đó, ông đang đính vào các mảnh thủy tinh và đá đã được đẽo gọt thành những viên có hình dạng như ngọc.

Thế là tôi đã gặp Nicholas xứ Morimondo, người thợ cả của ngành Thủy tinh ở tu viện. Ông giải thích với chúng tôi rằng phía sau khu lò rèn, họ cũng có thổi thủy tinh; trong khi đó, ở khu trước dành cho thợ rèn, người ta gắn kính để làm cửa sổ. Ông còn nói tiếp rằng, những công trình vĩ đại bằng kính màu dùng để trang trí nhà thờ và Đại dinh đã được hoàn tất cách đây hai thế kỷ. Hiện nay, công việc của ông và các cộng sự khác chỉ thu hẹp trong những thứ lặt vặt và sửa chữa các chỗ bị thời gian tàn phá. Ông giải thích tiếp:
- Và hết sức khó khăn, vì không thể tìm được những kính màu ngày xưa, đặc biệt là kính màu xanh tuyệt diệu mà Huynh thấy trong khu ca đoàn. Nó trong đến nỗi khi mặt trời lên cao, nó đổ xuống một luồng sáng từ thiên đàng vào gian giữa nhà thờ. Ở phía tây của gian giữa kính mới được tu bổ đây, nhưng không được làm cùng một phẩm chất, và vào những ngày hè, Huynh sẽ nhận ra ngay. Thật là tuyệt vọng. Chúng tôi không còn nắm giữ kiến thức của bậc tiền bối nữa, thời đại của các vĩ nhân đã qua rồi!
- Chúng ta là những người lùn, - thầy William công nhận – nhưng là những người lùn đứng trên vai các người khổng lồ đó, và mặc dầu chúng ta bé nhỏ thật, đôi khi chúng ta vẫn có cách nhìn vào chân trời xa hơn họ.
- Xin hãy cho tôi biết chúng ta đã làm tốt hơn các vị tiền bối cái gì khác nào? – Nicholas thốt lên – Nếu Huynh đi xuống hầm của nhà thờ, nơi tồn trữ kho tàng của tu viện, Huynh sẽ nhận thấy những hộp đựng thánh tích được chạm trổ cực kỳ tinh xảo, đến nỗi cái hộp quái dị tôi đang vá víu đây, - ông gật đầu chỉ về phía tác phẩm làm dở trên bàn, - sẽ trông như một thứ trò hề!
- Đâu có quy định thợ cả ngành kính phải làm cửa sổ, thợ rèn phải làm hộp đâu; và các bậc thợ cả ngày xưa đã làm ra những vật tuyệt đẹp như thế rồi, những vật được làm với dụng ý sẽ tồn tại hàng nhiều thế kỷ. Nếu không, thế gian hẳn sẽ tràn ngập những rương, những hộp trong khi thánh tích thì quý hiếm, - thầy William nói đùa – và cửa sổ thì có phải cứ cần hàn mãi đâu. Nhưng tôi đã được thấy ở nhiều nước những vật bằng thủy tinh mới, cho thấy một thế giới tương lai, trong đó thủy tinh sẽ không chỉ phục vụ những mục tiêu tôn giáo, mà sẽ giúp con người bớt yếu đuối. Tôi muốn Huynh xem một thành quả sáng tạo của thời đại chúng ta, mà tôi được hân hạnh sở hữu, một thí dụ vô cùng hữu ích.

Ông thò tay vào áo và lôi ra cặp mắt kính, làm sững sờ người đang nói chuyện.
Vô cùng chú ý, Nicholas cầm lấy vật dụng uốn cong mà thầy William đưa cho ông, rồi thốt lên: - Những con mắt bằng đá cùng với cái hộp nhỏ! Tôi được nghe một tu sĩ xứ Jordan mà tôi hội ngộ ở Pisa kể về những vật này. Huynh ấy nói, chúng mới được phát minh cách đây gần hai mươi năm. Nhưng chúng tôi đã nói chuyện với nhau cũng đã cách đây hơn 20 năm rồi.
- Tôi tin chúng được phát minh trước đó rất lâu, nhưng chúng rất khó làm, và đòi hỏi phải có những bậc thầy của ngành kính vô cùng tinh xảo. Tốn rất nhiều thời gian và công sức. Cách đây mười năm, một cặp kính này được bán với giá sáu quan Ý. Một người thợ cả vĩ đại, Sanvinus, ở Armati đã cho tôi cặp kính này cách đây hơn chục năm, và tôi vẫn hằng nâng niu nó, xem nó như một phần thân thể tôi vậy.
- Hy vọng hôm nay Huynh sẽ cho phép tôi được xem xét kỹ nó. Tôi sẽ rất vui được chế ra vài cặp tương tự - Nicholas nói đầy xúc động.
- Rất sẵn lòng – thầy William nhất trí – nhưng hãy chú ý độ dày của kính, phải thay đổi tùy theo mắt người đeo, và Huynh lại phải cho người đeo thử nhiều cặp kính cho đến khi tìm thấy độ dày thích hợp.
- Kỳ diệu thay! Thế nhưng nhiều kẻ sẽ bảo đây là phép phù thủy, hay máy móc ma quỷ…

- Huynh chắc chắn có thể sẽ nói đến phép lạ trong vật dụng này. Nhưng có hai loại phép lạ: một loại phép lạ là công cụ của quỷ, dùng những mưu chước đen tối, gian xảo để làm con người sa đọa, và cũng có một phép lạ cao quý: đó là trí tuệ của Thượng đế được tỏa rạng thông qua trí tuệ của con người; nó phục vụ việc cải tạo tự nhiên, và một trong những mục tiêu của nó là kéo dài tuổi thọ con người. Đây chính là phép thiêng đáng để các bậc học giả tận tâm cống hiến ngày càng nhiều hơn nữa, không chỉ nhằm phát hiện những điều mới mẻ, mà còn nhằm tái phát hiện lắm điều bí ẩn trong tự nhiên mà Chúa tinh thông đã tiết lộ cho những người cổ Do Thái, Hy Lạp, những tiền nhân xa xưa, và thậm chí cho những kẻ vô thần ngày nay. Tôi không thể kể hết cho Huynh nghe những điều tuyệt vời về ngành mắt tôi đã học được trong các sách của các tác giả vô thần. Và những người trí thức đạo Ki-tô phải nắm được tất cả những nền học vấn của những người đa thần cũng như vô thần.
- Nhưng tại sao những người nắm được tri thức đó không giao lưu với tất cả thần dân của Chúa?

- Vì không phải tất cả thần dân của Chúa sẵn lòng đón nhận nhiều điều bí ẩn như thế, và những người sở hữu kiến thức đó vẫn thường bị lầm lẫn với bọn thầy đồng cốt, thông đồng với ác quỷ, và họ đã mất mạng vì mong muốn san sẻ cho người khác kho tàng kiến thức của mình. Riêng tôi, khi ngồi xử những vụ án mà kẻ tình nghi có liên quan với quỷ sứ, tôi đã phải thận trọng không dám dùng cặp kính này, mà phải nhờ đến các lục sự đọc giùm các văn kiện cần thiết. Nếu không cẩn thận, vào thời điểm quỷ sứ đang hoành hành tràn lan khiến mọi người đều có thể ngửi thấy mùi diêm sinh nồng nặc, thì chính tôi cũng có thể bị xem là bạn với bị cáo. Cuối cùng, như thầy Roger Bacon vĩ đại đã cảnh giác, các bí mật của khoa học không được lọt vào tay tất cả mọi người, vì vài kẻ có thể sử dụng chúng vào những mục tiêu tội lỗi. Một học giả thường phải viết những quyển sách có vẻ phù phép, nhưng không phải là phù phép; các sách đó chỉ đơn thuần là sách khoa học tốt nhằm bảo vệ họ khỏi những đôi mắt thiếu thận trọng.
- Thế Huynh sợ rằng thường dân sẽ dùng các bí mật này vào mục tiêu tội lỗi à?

- Đối với thường dân, tôi chỉ sợ rằng các bí mật đó khiến họ kinh hãi và lẫn lộn với những trò ma quỷ mà các tu sĩ giảng đạo cứ lải nhải mãi. Huynh biết không, tôi quen biết những nhà vật lý tài năng, họ đã bào chế ra các loại dược phẩm có khả năng trị lành tức khắc các bệnh dữ. Nhưng khi họ đưa cho các dân thường các thứ thuốc thoa hay thuốc uống trên, họ lại kèm theo đó những câu Phúc âm hay những lời ngân nga nghe như Thánh kinh. Không phải vì tin những lời kinh này có khả năng chữa bệnh, mà vì tin rằng lời kinh mang đến sự lành bệnh, do đó người dân sẽ uống hay thoa các thứ thuốc đã dùng, rồi lành bệnh mà rất ít để ý đến kiến hiệu của loại thuốc đã dùng. Tinh thần của họ, nhờ được hưng phấn bởi lòng tin đạo thành kính, cũng sẽ đón nhận tác dụng của thuốc vào thân thể tốt hơn. Nhưng kho tàng trí thức thường cần phải được bảo vệ không phải để khỏi rơi vào tay những người dân thường, mà chính là để khỏi rơi vào tay các học giả khác. Một ngày nào đó, tôi sẽ nói với Huynh về các máy móc kỳ diệu có thể thực hiện tiên đoán chu kỳ tự nhiên. Nhưng thật đáng buồn biết bao, những máy này sẽ lọt vào tay những kẻ dùng nó để bành trướng quyền lực và thỏa mãn lòng tham của chúng. Tôi được biết tại Cathay, một nhà hiền triết đã chế được một hợp chất dạng bột, khi bỏ vào lửa sẽ tạo ra một tiếng nổ dữ dội và bùng lên một ngọn lửa lớn; nó có thể thiêu hủy tất cả mọi vật trong vòng nhiều thước. Đó sẽ là một công cụ tuyệt diệu nếu được dùng vào việc chuyển dòng sông hoặc phá đá khi dỡ đất để cày cấy. Nhưng nếu một kẻ nào đó dùng nó để ám hại các kẻ thù của mình thì sẽ ra sao?

- Có lẽ cũng tốt thôi, nếu chúng nó là kẻ thù của thần dân Đức Chúa trời, - Nicholas thành khẩn nói.
- Có lẽ vậy, - thầy William công nhận – Thế nhưng nay ai là kẻ thù của thần dân của Chúa? Hoàng đế Louis hay Đức Giáo hoàng John?
- Ôi, lạy Chúa! – Nicholas hốt hoảng – Thực tôi chả thích trả lời dứt khoát những vấn đề gay go thế đâu!
- Huynh thấy chưa, đôi khi một số bí mật nào đó nên được che phủ bởi một lớp từ ngữ huyền ảo. Các bí mật của tự nhiên không được truyền đạt lại trên các bản da dê, da cừu. Trong quyển sách nói về các điều bí mật, Aristotle cho rằng việc thông tin quá nhiều điều bí ẩn của tự nhiên và nghệ thuật sẽ phá vỡ khóa thiên đường, và nhiều tội lỗi sẽ liền theo sau. Nói như thế không có nghĩa là không được tiết lộ các bí mật, mà có nghĩa là một học giả phải quyết định khi nào và bằng cách nào để tiết lộ.
- Đó là cái cớ tốt nhất trong những nơi như ở đây. Không phải tất cả mọi người đều đọc được tất cả mọi loại sách.

- Đây là một vấn đề khác. Ba hoa quá có thể là một cái tội, nhưng dè dặt, kín tiếng quá cũng có thể là một cái tội nữa. Tôi không có ý nói rằng cần phải che giấu các nguồn tri thức; ngược lại, đối với tôi, đây là một tội nặng. Ý tôi muốn nói rằng vì những nguồn này là các sự bí ẩn làm phát sinh cả điều thiện lẫn điều ác, một học giả có quyền và nhiệm vụ sử dụng một ngôn ngữ trừu tượng, mơ hồ, mà chỉ đồng nghiệp của ông ta mới hiểu được. Thường các học giả trong thời đại chúng ta chỉ là những tên lùn trên vai những tên lùn khác.
Cuộc chuyện trò thân mật với thầy tôi hẳn đã khiến Sư huynh Nicholas cảm thấy vững bụng. Ông nháy mắt với thầy William, dường như muốn nói: “Chúng ta hiểu nhau vì cùng có những mối quan tâm”, và nói bóng gió:
- Nhưng ở đằng kia, - ông ra chỉ về tòa Đại dinh, - các bí mật của học vấn được bảo vệ kỹ lưỡng nhờ những phép lạ.
- Thế à? – thầy William hờ hững hỏi – Tôi chắc đó là các cửa có chấn song, các luật cấm khắt khe, các lời đe dọa chứ gì?
- À không. Còn hơn thế nữa…
- Chẳng hạn như cái gì nào?
- Ồ, tôi không biết chính xác. Tôi chỉ quan tâm đến thủy tinh chớ không phải sách vở. Nhưng trong thư viện có nhiều lời đồn đại… nhiều lời đồn đại lạ lùng…

- Đồn những gì?
- Lạ lùng lắm. Chẳng hạn, tin đồn về một tu sĩ liều lĩnh đột nhập vào thư viện ban đêm để tìm một quyển sách gì đó mà Malachi đã không bằng lòng đưa cho Huynh ấy; rồi Huynh ấy trông thấy rắn rít, người cụt đầu, người hai đầu… Khi ra khỏi Mê cung này, Huynh ấy đã suýt điên…
- Tại sao Huynh nói đó là những phép lạ chứ không phải những bóng ma?
- Vì mặc dầu tôi chỉ là một thợ cả tồi của ngành thủy tinh đi nữa, tôi cũng không đến nỗi dốt nát như thế. Ác quỉ (xin Chúa phù hộ chúng con) không dùng rắn rết và lũ người hai đầu để quyến rũ một tu sĩ. Có chăng, chắc phải là các hư ảnh dâm đãng như nó đã dùng để quyến rũ các cha trong sa mạc. Ngoài ra, nếu lấy một quyển sách nào đó là tội lỗi thì sao Ác quỷ lại ngăn ngừa một tu sĩ phạm tội đó?
- Tôi cho đó là một lối suy diễn hay, - thầy tôi công nhận.

- Và sau hết, lúc tôi đang sửa chữa các cửa sổ ở bệnh xá, tôi lật qua vài quyển sách của Severinus để xem cho vui. Có một quyển sách về các điều bí mật do Alberius Magnus viết. Tôi bị hấp dẫn bởi vài minh họa rất lạ bèn đọc vài trang viết về cách làm thế nào bôi mỡ bấc đèn dầu để tỏa ra mùi gợi lên các ảo ảnh. Hẳn Huynh có để ý… à, chắc Huynh chưa để ý đâu, vì Huynh chưa trải qua một đêm nào ở tu viện mà. Vào những lúc tối, tầng trên của tòa Đại dinh được thắp sáng. Đâu đó, từ các cửa sổ hắt ra thứ ánh sáng mờ mờ; nhiều người thắc mắc không hiểu ánh sáng đó là gì, và người ta nói đến ma trơi, hay là hồn ma của những Quản thư viện quá cố trở về viếng chốn cũ. Nhiều người ở đây tin vào những câu chuyện này. Tôi nghĩ đó là những ngọn đèn đặt sẵn ở đấy để tạo ảo ảnh. Như Huynh biết đấy, nếu mình lấy dáy tai chó mà dùng nó để bôi vào bấc đèn, bất kỳ ai ngửi thấy mùi khói đèn sẽ tưởng là có đầu chó, và nếu có một người nào đó đi cùng với hắn, người kia sẽ thấy một cái đầu chó. Có một loại thuốc bôi khác, khiến ai gần ngọn đèn sẽ cảm thấy mình to lớn như voi. Dùng một đôi mắt dơi và hai đôi mắt của một loại cá mà tôi đã quên tên và nọc của chó sói, Huynh sẽ làm được một bấc đèn; khi thắp lên, người ta sẽ thấy các con thú mà Huynh đã lấy mỡ. Với cái đuôi con kỳ nhông, Huynh có thể khiến tất cả mọi việc chung quanh trông như bằng bạc; với mỡ của con rắn màu đen cùng một mảnh vải liệm, căn phòng sẽ hiện lên đầy rắn rết. Tôi biết điều này. Ai đó trong thư viện rất khôn khéo…
- Nhưng chẳng lẽ linh hồn của các Quản thư viện quá cố không phải là những người đã biến hóa các phép lạ đó sao?

Nicholas lộ vẻ hoang mang bồn chồn, - Tôi không hề nghĩ đến điều đó. Xin Chúa phù hộ chúng con. Thôi đã muộn rồi, Kinh Chiều đã bắt đầu.Tạm biệt nhá.
Nói rồi, ông hướng về phía nhà thờ. Thầy trò tôi tiếp tục đi về hướng Nam. Nhà nghỉ cho khách hành hương nằm về bên phải chúng tôi cùng với nhà nguyện và khu vườn; còn bên trái là dãy nhà in màu lục đậm, nhà máy xay, kho thóc, nhà hầm và nhà tu sinh. Mọi người hối hả đi về phía nhà thờ. Tôi hỏi:
- Thầy nghĩ gì về những lời Nicholas nói?
- Thầy không biết. Có điều gì đó trong thư viện mà thầy không tin đó là linh hồn của các Quản thư viện quá cố…
- Sao lại không?
- Vì thầy nghĩ rằng họ là những người vô cùng đạo đức, nên nay họ đã ở lại trên nước Chúa để chiêm ngưỡng dung nhan thiêng liêng của Ngài; thầy cho rằng con bằng lòng với câu giải đáp này. Còn về những ngọn đèn, chúng ta sẽ xem thử chúng có đấy không. Nói về các loại thuốc mà Sư Huynh ngành thủy tinh đã bàn, thì có những cách tạo ra ảo ảnh dễ hơn và Severinus biết rất rõ, như con đã nhận thấy ngày hôm nay. Có điều chắc chắn rằng tại tu viện này, người ta không muốn ai đột nhập Thư viện vào ban đêm, và tất nhiên, ngược lại, nhiều người đã và đang cố sức vào đó.
- Thế án mạng của chúng ta có liên quan gì đến việc này?
- À, án mạng. Thầy càng nghĩ về nó, lại càng cả quyết rằng Adelmo đã tự sát.
- Sao thế?

-Con còn nhớ, sáng nay, khi thầy lưu ý con đến đống rơm bẩn không? Khi chúng ta đang leo lên khúc rẽ bên dưới ngọn tháp phía Đông, thầy đã để ý những vệt do đất lở để lại tại nơi đó. Hay là, nói cho đúng hơn, một phần dốc đứng đã bị sụt ở bên dưới ngọn tháp, xê xích trong khoảng nơi rác chất đống, và đất đã trụt xuống. Thế nên tối nay, khi chúng ta nhìn từ trên xuống, trên đống rơm hình như có một lớp tuyết mỏng, lớp tuyết mới nhất là lớp tuyết ngày hôm qua chớ không phải tuyết cách đây mấy hôm. Còn về xác Adelmo, Tu viện trưởng bảo đã bị đá cứa rách tan nát, nhưng dưới ngọn tháp phía Đông, nơi Đại dinh nối với bờ dốc đứng, là rặng thông. Tuy nhiên, vỉa đá lại nằm ngay dưới chân bức tường, tạo thành một bực thang, và phía sau là đồng rác.
- Thế nghĩa là…?
- Nghĩa là, hãy nghĩ xem phải chăng… thầy phải nói thế nào đây nhỉ…? Sẽ dễ dàng cho chúng ta suy luận hơn, nếu tin rằng Adelmo đã tự ném mình từ trên cao và rơi xuống vỉa đá, vì những nguyên do chưa xác định được. Rồi cơn bão đêm đó đã gây lở đất, cuốn theo rơm và một phần đất đai, cùng cái xác của chàng trai tội nghiệp xuống dưới ngọn tháp phía Đông.
- Tại sao thầy lại nói giải đáp này sẽ dễ dàng cho ta suy luận hơn?

- Adso thân yêu ơi, chúng ta không nên vẽ vời thêm nhiều nguyên nhân khác để giải thích, trừ khi thật cần thiết. Giả sử Adelmo rơi từ ngọn tháp phía Đông xuống, Huynh ấy chắc hẳn phải lọt vào thư viện, ai đó chắc hẳn phải đập Huynh ấy trước, vì thế Huynh không thể kháng cự được và rồi người đó hẳn đã tìm cách vác xác Huynh ấy leo qua cửa sổ rồi mở cửa ra và ném cái xác không hồn xuống. Nhưng với giả thuyết của thầy thì chỉ cần mỗi mình Adelmo, quyết định của chính Huynh ấy và sự lở đất. Dùng ít nguyên nhân hơn thì giải thích được tất cả.
- Nhưng cớ sao Huynh ấy lại tự tử?
- Thế tại sao lại có kẻ muốn giết Huynh ấy? Cả trong hai trường hợp đều cần phải tìm ra nguyên do, và ta đoán chắc phải có nguyên do. Không khí trong Đại dinh có vẻ u uất. Tất cả mọi người đều đang che dấu một điều gì đó, chúng ta chỉ thu thập được vài lời bóng gió, hẳn là còn quá mơ hồ, về một mối quan hệ lạ lùng nào đó giữa Adelmo và Berengar. Thế nghĩa là chúng ta sẽ để ý đến viên phụ tá Quản thư viện.

Trong khi chúng tôi đang bàn bạc về vấn đề này, Kinh Chiều đã xong. Các tôi tớ quay về nhiệm vụ của họ trước khi ăn tối, còn các tu sĩ thì hướng về nhà ăn. Trời đã sụp tối và tuyết bắt đầu rơi. Một trận lất phất hoa tuyết nhẹ, mà tôi tin sẽ rơi suốt đêm đó, vì sáng hôm sau, toàn mặt đất đều được phủ một lớp chăn trắng xóa như tôi sẽ kể tiếp sau. Tôi thấy đói và khoái trá nghĩ đến lúc ngồi vào bàn ăn.

 

Chương 6

KINH TỐI

William và Adso hân hoan
đón nhận sự hiếu khách nồng nhiệt
của Tu viện trưởng
và cuộc đàm thoại giận dữ với Jorge

Nhà ăn được thắp sáng nhờ những ngọn đuốc lớn. Các tu sĩ ngồi quanh dãy bàn tròn. Bàn của Tu viện Trưởng cao hơn hẳn, được đặt trên một bệ thẳng góc với dãy bàn của các tu sĩ. Phía đối diện là bục giảng kinh, và vị tu sĩ sẽ đọc kinh trong bữa ăn tối nay đã có mặt tại chỗ. Tu viện trưởng đang đợi chúng tôi tại bồn nước nhỏ, với một tấm vải trắng để lau tay chúng tôi sau lễ rửa tay, theo lời chỉ bảo xa xưa của Thánh Pachomius.
Tu viện trưởng mời thầy William về bàn mình và bảo tối nay tôi cũng được hưởng đặc quyền này, vì chính tôi cũng là một người khách mời, cho dù tôi chỉ là một tu sĩ dòng Benedict. Cha bảo, vào những ngày sau, tôi phải ngồi với các tu sĩ hoặc nếu tôi bận công việc gì cho thầy tôi, thì có thể tạt vào nhà bếp trước hoặc sau bữa ăn, các đầu bếp sẽ lo bữa cho tôi. Những tu sĩ bấy giờ đang đứng bất động tại bàn ăn, mũ trùm đầu sụp xuống mặt và tay của họ ẩn trong áo dòng. Khi Tu viện trưởng đến bàn của mình và cất tiếng “Xin Chúa ban phước lành”, từ bục giảng, người lĩnh xướng bèn ngâm hoạ theo: “Những kẻ nghèo đói được ăn uống”. Tu viện trưởng làm phép và mọi người ngồi xuống.
Nội quy của vị thánh tổ của chúng tôi qui định phải dùng bữa thanh đạm, nhưng cho phép Tu viện trưởng định xem các tu sĩ thực sự cần một lượng thực phẩm bao nhiêu. Tuy nhiên, các tu viện ngày nay đã để ý đến thú ăn uống nhiều hơn. Tôi không muốn đến những tu viện mà chẳng may đã biến thành những khu tạp thực; nhưng ngay cả các tu viện theo lối khổ hạnh cũ cũng đã cung cấp cho các tu sĩ, những người hầu như phải luôn lao động bằng trí óc một cách căng thẳng, một lượng thực phẩm bổ dưỡng chứ không quá đạm bạc. Mặt khác, trên bàn của Tu viện trưởng bao giờ cũng có thực phẩm đầy chất bổ dưỡng hơn, một phần vì các khách quý thường ngồi đây, và các tu viện đều tự hào về những thành phẩm từ những bàn tay và đất đai của nó, và về tài năng của các đầu bếp.

Các tu sĩ lặng lẽ dùng bữa, và như thường lệ, họ nói chuyện với nhau bằng tín hiệu tay. Tu sinh và các tu sĩ trẻ được dọn ăn đầu tiên, ngay sau khi bàn Tu viện trưởng đã được phục vụ.
Cùng ngồi ăn tại bàn Tu viện trưởng với chúng tôi có Malachi, tu sĩ quản hầm, và hai vị tu sĩ cao niên khác: Jorge – tu sĩ mù đáng kính tôi đã gặp tại phòng thư tịch, và Alinardo - một con người cổ kính, gần như đã trăm tuổi, bị tật ở chân, yếu đuối và đã lú lẫn. Tu viện trưởng kể cho chúng tôi nghe rằng khi đến tu viện từ thuở còn là tu sinh, Alinardo đã sống bám trụ mãi ở đây và thuộc lòng gần 80 năm lịch sử của nó. Tu viện trưởng thầm thì nói những điều này vào lúc đầu bữa ăn, vì sau đó ông yên lặng theo dõi bài đọc kinh theo lệ của dòng tu. Nhưng, như tôi đã nói, tại bàn Tu viện trưởng, thực khách được tự do hơn, nên khi ông tán dương chất lượng dầu ô-liu hay rượu vang, chúng tôi bèn ca ngợi các món ăn được dọn ra.
Chúng tôi ăn thịt heo nướng, vừa mới giết, và tôi nhận ra, khi nấu các món ăn khác, họ không dùng mỡ động vật hay dầu cải mà dùng dầu ô-liu hảo hạng, được sản xuất từ các vùng đất của tu viện ở chân núi phía gần biển. Tu viện trưởng ép chúng tôi nếm món thịt gà tôi đã thấy làm ở nhà bếp khi nãy. Tôi trông thấy ông cũng có một chiếc nĩa kim loại thứ rất hiếm, hình dáng nó khiến tôi nhớ đến chiếc mắt kính của thầy tôi. Là một người dòng dõi quí tộc, Viện trưởng không muốn thức ăn làm bẩn tay, và mời chúng tôi sử dụng chiếc nĩa của ông, ít ra cũng để xăm thịt từ chiếc đĩa lớn sang vào bát mình. Tôi từ chối, nhưng thầy William lại hoan hỉ nhận lời, và sử dụng món đồ của các bậc quý tộc với vẻ thờ ơ, có lẽ để cho Tu viện trưởng thấy rằng không phải tất cả các tu sĩ dòng Francisco đều ít học và quê mùa.

Vì mải thưởng thức tất cả các món ăn ngon này, tôi đã chẳng để tâm đến bài đọc kinh mà từ nãy giờ vẫn tiếp diễn một cách thành kính. Giọng Jorge nồng nhiệt tán đồng khiến tôi nhớ đến bài kinh và tôi nhận ra đã đến đoạn trong đó luôn luôn luôn có đọc một chương giáo điều. Tôi hiểu tại sao Jorge lại tán đồng như vậy, vì chiều nay tôi đã nghe ông nói chuyện. Tu sĩ đang đọc: “Hãy theo gương của nhà tiên trì, người đã nói: Ta đã quyết sẽ cẩn trọng không để miệng mình phạm tội, ta đã khoá miệng mình và hoá câm, để tự hạ mình, đã nén không nói, dù là nói những điều ngay thực. Và nếu trong đoạn này, nhà tiên tri đã dạy chúng ta rằng đôi khi vì tình yêu quý sự yên lặng, chúng ta phải nén lòng đừng nói, dù là nói về điều đúng đắn, thì chúng ta càng phải nên kiềm chế không nói đến những điều không đúng đắn nhiều hơn nữa, để tránh bị tội lỗi này trừng phạt!”. Rồi ông tiếp tục – “Nhưng chúng ta mãi mãi không cho phép nói những lời thô tục, nhảm nhí, đùa cợt, ở bất cứ nơi nào, và sẽ không để các tông đồ mở miệng nói những điều như vậy”.
- Điều này dành cho các trang ghi chú ngoài lề mà chúng ta đã tranh luận chiều nay, - Jorge ôn tồn bình luận – John Chrysostom đã nói rằng Chúa không bao giờ cười.
- Chẳng có gì trong tính nhân bản của Ngài cấm kỵ việc đó cả, - thầy William lên tiếng, - vì như các nhà thần học đã dạy: nụ cười rất thích hợp với con người.
- Người ta có thể cười, nhưng chẳng có sách vở nào ghi rằng con người đã cười, - Jorge nói, trích dẫn lời nói của Petrus Cantor.
- “Hãy ăn đi, thức ăn đã chín rồi,” - thầy Wiliam thì thầm.
- Cái gì? – Jorge hỏi, nghĩ rằng thầy tôi đang nói đến một món ăn nào đó đang được dọn lên.

- Theo Ambrose, đó chính là lời Thánh Lawrence đã nói khi người mời bọn xử giảo đến bắt mình; lòng dạ người lúc ấy bồn chồn như ngồi trên lửa, như Prudentius cũng đã kể lại trong quyển “Peristephanon” (1).
Thầy William nói với vẻ thánh thiện – Do đó, Thánh Lawrence đã biết cách cười và nói những điều nhố nhăng, dù làm như vậy để nhục mạ kẻ thù của ông đi nữa.
- Điều đó chứng minh tiếng cười là một thứ rất gần với cái chết và sự suy đồi của cơ thể - Jorge sừng sộ đáp, và tôi phải công nhận ông nói như là một nhà lôgíc.
Ngay lúc đó, Tu viện trưởng hoà nhã yêu cầu chúng tôi giữ yên lặng. Dẫu sao thì cũng sắp xong bữa. Tu viện trưởng đứng dậy và giới thiệu thầy William với các tu sĩ. Ông ca ngợi trí tuệ thầy tôi, tán dương danh tiếng của thầy và báo cho mọi người hay rằng ông đã yêu cầu vị khách quý điều tra về cái chết của Adelmo; ông khuyến khích các tu sĩ trả lời bất kỳ câu hỏi nào của thầy và chỉ thị cho tất cả các người giúp việc trong toàn tu viện cũng phải làm như vậy.

Ăn xong, các tu sĩ chuẩn bị lên khu hát kinh dự Kinh Tối. Họ lại hạ mũ xuống mặt, và đứng xếp hàng tại cửa. Rồi họ nối đuôi thành một hàng dài, băng qua nghĩa trang, và đi vào khu hát kinh bằng lối cửa Bắc.
Chúng tôi cùng đi với Tu viện trưởng. Thầy William hỏi ông: - Phải chăng, đây là giờ đóng các cửa của toà Đại dinh?
- Ngay sau khi các người giúp việc lau chùi xong phòng ăn và nhà bếp. Quản thư viện sẽ đích thân đóng tất cả các cửa và gài then bên trong.
- Then gài từ bên trong ư? Thế Huynh ấy ra bằng cửa nào?
Tu viện trưởng trừng trừng nhìn thầy William một lúc.
- Chắc chắn là Huynh ấy không ngủ trong nhà bếp. – Tu viện trưởng hằn học nói, rồi bắt đầu rảo bước.
Thầy William thì thầm với tôi: - Tốt lắm, như thế chắc chắn còn một cánh cửa khác nữa, nhưng chúng ta không được phép biết đến – Tôi mỉm cười, hãnh diện về tài suy luận của thầy, nhưng thầy mắng:
- Chớ cười! Như con thấy đó, ở đây người ta không ưa tiếng cười.
Chúng tôi tiến vào khu hát kinh. Một ngọn đèn đang cháy sáng rực trên giá ba chân bằng đồng, cao to bằng hai chân người. Các tu sĩ lặng lẽ đi về chỗ mình.

Tu viện trưởng ra hiệu và người xướng ngôn ngâm: “Cầu Chúa ban tình thương cho chúng con”. Tu viện trưởng đáp: “Nhân danh Chúa, chúng con ngợi ca”, và mọi người đồng thanh tiếp lời “Chúa tạo ra trời đất”. Thế rồi bản Thánh ca cất lên: “Khi con kêu gọi Chúa đáp lời, ôi Chúa công minh, con xin thành tâm tạ ơn Chúa, xin Chúa đến ban ơn cho toàn thể tôi tớ của Ngài”.
Chúng tôi không ngồi vào ghế mà lùi vào gian chính của nhà thờ. Tại đó, chúng tôi đột nhiên thấy Malachi từ nhà nguyện tối tăm bên cạnh bước ra. Thầy William bèn bảo tôi:
- Để ý chỗ đó. Có thể có một con đường dẫn đến toà Đại dinh.
- Dưới nghĩa trang à?
- Sao lại không? Thật ra, giờ thầy nghĩ hẳn phải có một lò thiêu ở đâu đó. Họ không thể chôn cất tất cả các tu sĩ chết hàng bao thế kỷ nay trong một khoảng đất nhỏ thế được.
- Nhưng thầy thực tâm muốn đột nhập thư viện vào ban đêm ư?
- Nơi có những linh hồn tu sĩ và rắn rít, và ánh sáng huyền bí, phải không, Adso? Không đâu, con ạ. Hôm nay thầy nghĩ đến hành động đó, không phải vì hiếu kỳ đâu, mà vì thầy đang xem xét vấn đề Adelmo đã chết như thế nào. Bây giờ, như thầy đã nói với con, thầy có khuynh hướng giải thích một cách khoa học hơn, và sau khi xem xét mọi việc, thầy nghĩ nên tôn trọng luật lệ của nơi này.
- Thế tại sao thầy muốn biết?
- Vì sự học hỏi không chỉ bao gồm hiểu biết điều thầy phải hay có thể làm, mà còn bao gồm cả sự hiểu biết điều thầy sẽ có khả năng làm nhưng có lẽ không nên.

Chú thích:
(1) (Hy Lạp) Luận về việc Đăng Quang.

 



.:: Trang chủ ::.
>>Tag :
Online: 1 / 1
C-STAT