Duck hunt
Game mobi, avatar, phần mềm miễn phí
HOME GAME MP3
>>Kho Game Online 2013
>>Hot Clip Cựt Hay 2013
>>Kênh 18 Cập Nhật
I love you baby (Spandex)
>>Admin : Chào mừng bạn đến với wapsite http://giaitrionline.sextgem.com Trang giải trí hoàn toàn miễn phĩ hàng đầu vn.Chúc Bạn Online Vui vẻ...!
Thế giới giải trí trên mobile
>>Game Cập Nhật 24h...
Truyện tâm linh

 

Chương Ba

Thì ra Trần Hữu Lăng không phải là người Minh Hương lai Khơ-me như anh em chúng tôi vẫn tưởng.

Trong một giây, tôi nghĩ ngay đến những chuyện bí mật ẩn náu sau vụ đổi họ cải tên này.

Như hiểu rõ tâm hồn tôi, ông Ômya nói:

- À! Ra là thế. Nhưng xét cho cùng thì cái việc Tôkubê lấy tên Trần Hữu Lăng và không cho ai biết cái quá khứ của anh ta, dù là đối với các bạn thân, cũng không có gì lạ hết. Các ông đã biết quá rõ ràng: Nhật thua trận Đồng Minh, một số người Nhật ở lại thành ra người “Việt Nam mới” và đổi tên họ để sống hoàn toàn như người Việt Nam. Trường hợp của Tôkubê y như vậy. Nhưng tôi đến đây không nhằm mục đích tìm biết điều đó, mà muốn được ông giúp một điều - một điều thôi: Tôkubê chết có phải đúng như biên bản của nhà thương và cò bót hồi đó hay không? Và nếu ông rộng lượng hơn, xin cho biết thêm là Tôkubê tức Trần Hữu Lăng quen biết ông thực, ông ta có trối trăn điều gì trước khi nhắm mắt không?

Tôi xin trình ông một điều: câu tôi vừa hỏi nhất định vừa hỏi là câu cật vấn, nhưng là một lời xin giữa một người da vàng với một người da vàng. Ông giúp cho tôi là mặc nhiên làm được hai việc thiện: một là giúp cho gia đình Tôkubê hiện giờ ở Nhật đang khắc khoải trông chờ tin tức của ông ta và hai là giúp cho tôi làm được một công viêc có lợi cho đất nước tôi.

Tôi nói thế mà không sợ ông tiết lộ vì mặc dù nghề nghiệp của tôi nhiều khi phải giả dối và bóp méo ý nghĩ đi. Nhưng xin thề là trong vụ này tôi hoàn toàn tin tưởng lòng cao quý của ông và chủ trương nhân bản của ông.

“Tất cả những người nói khéo đều nguy hiểm. Mật ngọt chết ruồi”.

Tôi nghĩ thầm trong đầu. Và tôi hỏi:

- Ông vừa nói rằng gia đình Tôkubê tức Lăng hiện giờ đang khắc khoải chờ tin tức của anh ta. Câu nói ấy là thật hay phỏng đoán?

- Hoàn toàn thực. Trước khi sang đây, tôi có đến thăm gia đình ảnh nhiều lần. Tôi coi vợ anh ấy như em tôi, còn hai đứa con ảnh thì chính tôi dạy dỗ và giúp đỡ tiền nong học hành. Tôi nhắc lại là trong việc này tôi lừa dối ông không có lợi gì cho tôi hết.

- Tôi cũng tin như thế, nhưng theo chỗ tôi biết thì khác, gia đình của Lăng tức Tôkubê hiện giờ ở miền Trung, tại dãy Trường Sơn, và chính anh ta vẫn nói với tôi như thế. Thỉnh thoảng anh ấy vẫn ra Trung thăm nhà…

Ômya gật đầu, hút một hơi thuốc lá dài, có lẻ như muốn thừa lúc kéo hơi thuốc để suy nghĩ một điều gì thật nhanh. Rồi nói:

- Không. Nói thế là sai, tôi đã hứa là hoàn toàn thành thật với ông, tôi xin giữ lời hứa đó. Trước khi đến đây, tôi đã ra Trung một tuần và tôi đã hỏi kỹ các nơi lân cận mà trước đây anh đã ở: Tôkubê không lấy một người vợ nào khác ngoài người vợ ở Nhật mà cũng không có thêm một đứa con nào dù là con nuôi. Tôi rất tin những lời ấy bởi vì đã nhiều lần thề thốt vời tôi như vậy, sau khi anh đã bị vướng víu vào một chuyện tình thê thảm ở dãy Trường Sơn.

Nhưng đó là chuyện đã qua của một cá nhân quá cố, tưởng rằng nên nhắc nhở lại làm gì.

Còn về việc ông ta thỉnh thoảng lại ra Trung, tôi nghĩ có lẻ là vì công việc khác mà anh ta giấu không chịu nói với bạn bè đấy thôi. Thực ra, dấu kín công việc đó cũng là hợp tình hợp lý, nhưng để chứng tỏ tôi tin ông đến bực nào và lòng tôi thành thực đến ngần nào, tôi không sợ gì mà tôi không dám nói. Công việc của Tôkubê ở dãy Trường Sơn liên hệ đến cái kho tàng của quân đội Nhật sau khi thua trận. Chắc ông đã biết chuyện kho tàng đó ra sau rồi…

- Tôi chỉ nghe đại khái và không tin là có thật.

Tin hay không là tự do của mỗi người. Nhưng riêng tôi thì biết chắc rằng có một số người Nhật có nhiệm vụ ở lại đây để canh chừng và trông số đó chỉ có một hai người biết rõ chỗ chôn giấu kho tàng ấy. Tôkubê là một trong số người hiếm hoi đó.

Bởi vì tôi với y là bạn nên tôi biết rằng y biết rất nhiều về các bí mật ấy nhưng bản đồ, tổng số báo vật và cách thức xuống được kho tàng ấy thì chưa bao giờ nói với ai. Nhưng cứ theo những lời thì thầm, đồn đại lén lút với nhau thì kho tàng ấy gồm những chiến lợi phẩm vô cùng quý giá mà một số sĩ quan Nhật đã tịch thu được ở Bắc Việt, Nam Dương, Mã Lai, Tân Gia Ba, Nam Việt, Hồng Kông... Vì chiến tranh tiếp diễn mỗi ngày mỗi ác liệt hơn, các quý vật đó không đưa được thẳng về Nhật, nên quân Nhật phải tạm chôn giấu ở các rừng cây, khe núi với hy vọng một khi trời đất yên lành thì sẽ khai quật để đưa về xứ sở.

Giá trị kho tàng ấy chừng bao nhiêu? Không ai biết. Nhưng theo lời các người Nhật “lô can” phục vụ trong quân đội Thiên Hoàng lúc đó với tư cách dân công phụ trách khuân vác trốn tránh mà về được đến cửa đến nhà ở cuối dãy núi Trường Sơn, trong riêng một cái hầm cũng đã có cả trăm toa xe lửa bảo vật chia ra làm mười chuyến, mỗi chuyến mười toa.

Có người nói rằng chiến lợi phẩm ấy chôn ở nhiều hầm bí mật khác nhau: có cái ở ven biển, có cái ở chân núi, có cái ở trong rừng mà xuống được các nơi đó phải có bản đồ rõ rệt, nếu không sẽ bị rắn độc cắn chết thì cũng bị một chứng bệnh nguy hiểm không đi được nữa, nằm lăn ra rồi chết một cách khổ sở ngay tại chỗ.

Ông Ômya nghỉ một giây rồi tiếp:

- Tôi đến đây với hy vọng được gặp ông để hỏi xem ông có được Tôkubê tâm sự gì về cái kho tàng ấy trước khi y chết hay không…

- Thật quả không. Y không bao giờ nói cho tôi biết hết. Mà lúc chết y lại cấm khẩu ngay cho nên dù có muốn dặn bảo hay tâm sự điều gì cũng không thể được.
Chương Bốn

Nghe câu chuyện của ông Ômya, tôi bắt đầu có cảm tình vì không những ông đã cởi mở mà cái giọng ông nói, xét kỹ từng li từng tí, tôi thấy có phần nhiều thành thật. Nhưng tôi hơi buồn. Là vì lúc mới đầu nghe câu chuyện kho tàng bí mật của quân đội Nhật ở dãy Trường Sơn, không hiểu sau tôi nghĩ ngay đến cái chết của anh ta, nhưng tôi thất vọng. Và tôi nói thế với người bạn mới:

- Tôi thú thực với ông là cái chết của ông Lăng đã làm cho tôi thắc mắc cả mấy năm nay. Tôi không hiểu…Nghe ông nói, tôi đã hy vọng câu chuyện của ông sẽ đem lại cho tôi một vài tia ánh sáng, nhưng tôi suy nghĩ rồi ông Ômya ạ. Tôi không thấy cái kho tàng này liên quan gì đến cái chết của ông Tôkubê, và cũng không dính líu đến cái bóng ma ở nhà tôi, cái bóng ma mà ông Tokubê đã chửi bới và hăm dọa đâm chết.

- Ủa, sao lại có chuyện Tôkubê chửi bới bóng ma ở nhà ông?

- Chuyện đã xảy ra cả chục năm nay và có lúc đã làm cho tôi vất vả, đi đi lại lại ở các cửa công môn. Nhưng sau đó ít lâu, tôi đã quên đi rồi thì bỗng đâu ông bạn tới và nhắc lại tôi cái chết ấy mà tôi cho là bí ẩn chưa từng thấy. Lập tức tôi nghĩ đến chuyện chôn vàng, đào vàng có thần giữ cửa làm cho người tìm vàng bị chết đau đớn, nhưng bây giờ tôi nhận thấy rõ là Tôkubê chết không phải vì lẻ đó. Ờ nếu không phải chết vì lẽ đó thì vì lý do gì mà lại chết bất tử như vậy? Chết cấm khẩu liền! Mà toàn thân lại trầy trượt, bầm tím và rỉ máu ra như có trăm miểng sứ miểng sành đâm chọc?

Ông Ômya, chắc ông muốn biết rõ cái chết của Tôkubê. Để tôi kể ông nghe chi tiết. May ra ông là bạn cua Tôkubê sẽ có yếu tố để biết thêm và giải thích cho tôi hiểu câu chuyện phần nào, do đó đánh tan sự thắc mắc từng ám ảnh tôi trong nhiều năm nay.
Chương Năm

Câu chuyện đầu đuôi như thế này, có sao nói vậy, không thêm, không bớt.

Tháng 7 năm 1954, tôi di cư vào Sài Gòn, trong túi có bảy trăm bạc và một cái va li trong có hai sơ mi, hai cái quần. Trên đầu, có một nón nỉ và dưới chân có một đôi giầy. Thực tình tôi ý niệm đó là một cuộc đi chơi, một vài bữa lại về. Trước đó, tôi đã đi mấy chục lần như thế; mang cái sự vụ lệnh ra lấy một cái vé máy bay đi Sài Gòn nói là đi “công tác” nhưng chính là đi chơi bời bậy bạ và đánh bạc hết ở Ðại Thế Giới lại đến Kim Chung, thua hết lại về rồi xoay được ít tiền lại đi.

Lần đó tôi cũng yên trí sẽ về rồi lại đi như thế thì xảy ra vụ quốc gia đánh Bình Xuyên. Ở một khách sạn đường Năng-xy, thấy ngọn lửa bốc lên ở chung quanh, tôi coi là trò đùa, không thu xếp đồ đạc chạy như người khác. Tôi khoanh tay đứng xem lửa cháy, và nghe súng nổ. Đến lúc cần phải lấy va li để ẩn vào một nơi tương đối yên ổn thì đã muộn.

Nhưng có một mình và còn nguyên vẹn cái đầu và hai bàn tay, có sợ gì? Tôi ở đâu chẳng được? Tôi ăn ở đâu chẳng được?

Hàng phố lên đèn đã thấy tôi đón một tắc xi vào Chợ Lớn ăn qua quít cái gì rồi tất tưởi vào sòng. Tôi vốn “không có cái số đánh bạc” mười lần thì cả chín bận thua cháy túi, về nằm lăn “như thằng chết rồi” ở trên giường. Vậy mà không biết thần đổ rác phù hộ ra sao, kể từ hôm bị cháy hết cả va li quần áo thì đánh bạc lại được hoài: tài sỉu được, ru lét được, đến đêm về, rẽ xuống Ngã Bảy đánh xóc đĩa cũng được luôn. Mà được thế không phải một vài ngày, nhưng luôn trong hai tuần liền; tiền nhiều quá đến nổi không buồn đếm, cứ cuốn lại nhét từng mớ vào khe tủ, ngăn rút hay những chồng quần áo.

Ðúng sự thật, tôi không thấy thú vị gì; trái lại, lại buồn vì đến lúc nhớ lại thân mình thì lịnh cấm không cho Nam Bắc đi lại thông thường như trước nữa.

Ngậm cái buồn thê thiết ở trong lòng, tôi đi lang thang các phố để đợi tối về thì vào ngồi ở một cái bàn nhất định của một nhà hàng nhất định uống rượu một mình để cho say khướt vì có say khướt mới ngủ được, bằng không thì thao thức cả đêm, mãi tảng sáng mới nhắm mắt chợp đi một chút.

Không phải đến lúc đó tôi mới tập uống rượu đâu: tôi chè rượu từ lúc mười lăm, mười sáu tuổi, có thời kỳ uống rượu đế một đêm một lít kèm thêm Mạcten và “A Mi Ô quả phụ sâm binh” mà không sao hết. Nhưng đến lần này thì khác hẳn.

Thôi thì các bác sĩ muốn bảo là thần kinh suy sụp, là ảo giác, là hôn mê thế nào cũng được đi, tôi chẳng cần biết làm gì cả; chỉ biết chắc một điều là những đêm không ngủ, nằm thao thức một mình trong căn phòng không có đàn bà, tôi nghe thấy rõ ràng là có tiếng nói ở bên tai!

Nhất định tôi nói đúng đắn chứ không cà rỡn một li: có khi giữa ban ngày ban mặt, tiếng nói đó cũng kề vào tai tôi nói… Mà đố ông bạn biết nói gì? Nói đi nói lại với tôi một số nhà!

Ðồng thời, tôi nghe thấy văng vẳng ở xa hơn một chút: “Chợ Quán, ở hẻm 158 trên 367, nhà Mệ Hoát hai tầng ngoài có cây y lăng… hai tầng lầu”. Nói cái gì mà nhanh thế! Nhanh quá, như thể là hối thúc, như thể là giục giã, nghe bực quá, không có cách gì chịu nổi.

Ông Ômya ngắt lời, hỏi:

Có tiếng nói ở bên tai, nhưng mắt ông có trông thấy người nói không?

- Không. Nhưng tôi nghe rõ lắm, rõ là tiếng đàn bà xứ Huế, nói rất khoan thai nhưng nặng và hơi gắt.

- Chung quanh đi quẩn lại, chỉ có mấy tiếng đó thôi ư?

- Chỉ có thế thôi. Vậy mới là lạ chứ. Thú thực với ông tôi không sợ hãi, nhưng tôi tức bực vì tôi không hiểu ra sao cả. Tiếng nói đó là tiếng nói của thần linh hay ma quái? Có phải trước đây, lúc còn đi học có tiếng nói đó phải không?

- Ông học sử ký Pháp hơi nhiều rồi lấy hiện tượng làm sự thật thành ra tiềm thức bị ảnh hưởng mà không biết.

- Vậy ư? để tôi còn duyệt lại xem lời ông có đúng không.

- Mà có khi đó chỉ là trường hợp của máu huyết lưu thông ở trong người: vì uống rượu hơi nhiều; máu dồn lên trên đầu làm cho tai ù, ông tưởng tượng nghe thấy như thế rồi lần lần bị ám ảnh vì mấy câu nói đó.

Nghe thấy thế, tôi hơi bực mình. Giả thử cũng là ý kiến đó mà một người khác diễn tả vụng về một chút, tôi rất có thể giận lẫy và lờ đi không nói tiếp, nhưng ông Ômya vừa tỏ ra lễ độ vừa nói năng tế nhị nhẹ nhàng, nên tôi không để ý và chỉ đáp một câu nhạt nhẽo:

- Vâng. Ông muốn nghĩ thế nào cũng được, nhưng tôi quả quyết tiếng nói đó có chứa cái gì khó hiểu bên trong và tôi nhất định đi hỏi cho được căn nhà hai tầng lầu của Mệ Hoát ở Chợ Quán, có trồng cây Y Lăng ở cửa, xem ra thế nào.

Một buổi sáng thấp trời, vào đầu tháng chạp năm 1955, giãi ra tê lạnh ở đường Trần Hưng Ðạo vào chợ Lớn. Những nhà cửa bị bom đạn phá phách hồi xảy ra vụ Bình Xuyên được tái thiết lâu rồi, nhưng từ ngã tư Quốc Tế đến Chợ Quán vẫn có một cái gì lạnh lẽo ứ đọng trong không khí, một cái gì mà người ta chỉ cảm thấy mà thôi chớ khó mà diễn tả bằng lời được.

Thỉnh thoảng lại có một núi rác nằm chềnh ềnh trên bãi cỏ mà không có người đến dọn đi. Ở ngã tư phía ngôi chùa thờ Quan Thánh của người Tàu có một cái chợ lèo tèo.

Tất cả nhà ở hai bên đường cái đều ọp ẹp và xây cất theo kiểu cũ, còn ở trong các ngõ hẽm họa hoằn lắm mới có một hai cái nhà bằng gạch, còn tất cả thì bằng cây sơn các màu xanh đỏ như những cái đồ chơi bằng nhựa, thứ rẻ tiền, của trẻ con chơi bây giờ.

Tôi đi mấy tiếng đồng hồ rồi? Ðã đi hết cả các hẻm vùng Chợ Quán, tôi vẫn không tìm thấy hẻm 158 trên 367.

Hỏi thăm ba bốn người đi đường cũng không biết nốt. “Thôi đích thị là mình bị ảo giác lừa rồi. Có muốn tìm suốt ngày đi nữa cũng không ra nhà Mệ Hoát ở hẻm 158 trên 367 vùng Chợ Quán”.

Tôi đút hai tay vào túi nghĩ thầm như vậy và đang tính có nên trở về hay không thì gặp một đứa trẻ đang lôi sềnh sệch một con chó lường.

- Này em, ở đây có hẻm nào kêu là hẻm 158 trên 367 không?

Thằng nhỏ đứng lại, giơ một ngón tay lên trán xem xét tôi một lúc rồi trả lời:

- Hình như có. Tôi cũng ở đâu gần đấy. Nhưng bây giờ phải đem con chó này ra chợ, tôi không thể đưa ông đi được.

- Em chỉ dùm, cảm ơn.

- Ðây nè. Ông cứ thẳng con đường này mà đi. Ðến cái xe mì, ở dưới cây trứng cá ngã ba thứ nhất, ông quẹo sang trái đến cái chạp phô thì quẹo sang phải, thế là đến nơi.

Nghe thằng nhỏ nói, lòng tôi nhẹ hẳn. Cứ đúng theo lời thằng nhỏ mà đi, vừa đi vừa nhận xét, tôi thấy một tiệm chạp phô thực. Ngay trước tiệm chạp phô đó có một con đường đá lởm chởm loằng ngoằng dây thép gai và một vài cái xe ba gát đã nát không còn dùng được. Tôi quẹo sang tay mặt. Một con đường nhỏ tương đối rộng hơn cái hẻm vừa hồi trườn ra trước mặt.

Nhìn thoáng, tôi thấy chừng mười căn phố trệt, nhưng trong mười căn đó có ba cái liền nhau sửa lại và cất lên hai tầng lầu. Tôi gõ cửa căn nhà thứ nhất lúc thoạt vào trong hẻm. Một người làm có vẻ ghiền ma túy, bước ra. Tôi hỏi:

- Ðây có phải là nhà Mệ Hoát phải không ông?

- Mệ Hoát nào? Ở đây không có ai là Mệ Hoát.

- Thế chủ nhà này là ai?

- Bán rồi.

- Mà bán cho ai?

- Bán cho người các chú ở ngoài đường lộ. Tôi là người nhà ông ấy. Muốn mua cũng bán, mà muốn mướn cũng được. Cứ ra mà nói chuyện với ông chủ là xong.

- Không có lý. Tôi biết nhà này của Mệ Hoát mà!

- Không đâu. Nhà này của ông Hồng Xương Phát. Nhưng à…tôi nhớ rồi…Tôi nhớ…nhưng mà không biết đích…người chủ nhà trước là một bà người Huế tên là Mệ Huyết chớ không phải là Mệ Hoát…à…cái người Trung họ vẫn thường có cái tục lệ cử tên như vậy: Thay vì Thành, họ kêu là Thiềng, Ðỉnh kêu là Ðiểng, Cảnh kêu là Kiểng, Mệ Hoát, ở Chợ Quán đây đã ba bốn chục năm rồi, các ông già bà cả trước đây vẫn kêu là Mệ Huyết. Lúc đó tôi còn ít tuổi cũng kêu như thế, cho nên đến lúc ông hỏi Mệ Hoát tôi không biết là ngườii nào hết. À, Mệ Hoát…….phải rồi Mệ Hoát.

- Theo lời ông nói nhà này đã bán cho chủ mới. Tôi có thể biết Mệ Hoát bây giờ ở đâu không?

- Chết lâu rồi còn gì. Mua đi bán lại mấy lần, căn nhà này đến gần đây mới về tay ông Hồng Xương Phát.

- Tính ra ông Hồng Xương Phát mua được mấy năm rồi?

- Có cả năm sáu năm nhưng ít có người đến ở, nhiều khi bỏ không cả năm bảy tháng, một năm.

- Không có ai mướn hay sao? Vì ở đây vắng vẻ?

- Nào ai có biết. Thực ra từ khi tôi đến trông coi, có một gia đình một ông làm việc ở Tân Sơn Nhất đến mướn, chồng tiền ba tháng. Nhưng không hiểu vì có việc gì xảy đến, ông ta không dọn lại.

- Thế người mướn cuối cùng là ai?

- Một ông chủ thầu mướn cho vợ nhỏ ở với đứa con trai ba tuổi.

- Thế cũng không đến ở hay sao ?

- Ðến ở chứ! Nhưng được một tuần thì có tin mẹ của bà vợ chết ở Nha Trang. Hai vợ chồng và đứa con về đưa đám rồi không thấy quay lại nữa.

- Trước ông chủ thầu đó là ai?

- Một ông làm đồ nhôm để làm xưởng chế nồi, soong, chảo…Có hai người nữa công ty với ông ta; giấy tờ xong suôi cả rồi, chỉ còn đem ra bỏ ngân hàng thì lại lôi thôi thể thức làm ăn sao đó. Công ty tan vỡ, rút cuộc tiền mướn chưa trả hết mà đồ đạc để lại chỉ có dăm ba cái bàn cái ghế đem bán chưa chắc được vài trăm đồng bạc.

“Nhà gì kỳ lạ. Hay là tại đất dữ nên không ở được chăng?”. Tôi ngỏ lời muốn người gác cho tôi vào coi thử trong nhà ra sao.

Ba căn nhà hai tầng này trông bề ngoài cùng xây một kiểu, nhưng không có cái nào ăn thông với cái nào. Ai muốn ở rộng rãi có thể đục tường ra cho ba nhà thông nhau, nhưng gia đình nào ít người, muốn mướn một căn để ở vẫn cứ được, mà không lẽ gì bị mất tự do. Tôi vào xem căn thứ nhất. Theo lời người gác già, cả ba căn nhà này kiến trúc giống nhau, cứ ngã giá với nhau đi rồi căn nhà nào cũng được. Xem một căn là đủ.

Mỗi căn rộng chừng bảy tám chục thước vuông cửa ngỏ chắc chắn, gạch hoa, nhưng tường vách cũng như sàn gạch đầy những bụi bậm.

Ðồ đạc có sẵn cho người mướn: ở dưới nhà có sa-lông, tủ rượu, một cái đi văng trải đệm, còn trên gác thì có một tủ áo, hai cái “giường một”, và một bàn lớn để viết lách cũng được luôn. Tường ở trên gác cũng như dưới nhà, không được sạch, có một vài chỗ lở cả vôi. Ðây đó gián một cái hình màu cắt ở báo Tây ra, vẽ những con chim con rùa. Sàn gác bằng gỗ thông, trải cao su, nhưng đi ở trên vẫn có chỗ kêu cót két một cách khả nghi. Trên trần, theo một ngọn đèn ống có hộp ni long xanh bao phủ, còn ở góc trái thì có một bàn thờ, dưới là một cái xích đông bộn bề báo cũ sách cũ và tranh ảnh. Tổng quát thì căn nhà này có một vẻ kỳ lạ, không có sinh khí mấy mà lại cũ kỹ, không thích hợp thời trang chút nào, nhưng không hiểu tại sao tôi lại thấy ưa.

Tôi mở cửa sổ chỗ kê hai cái gường một ra thì thấy mái nhà ở chung quanh, tương đối thấp hơn, nằm hớ hên cái nọ tiếp cái kia như xấu hổ tự thấy mình không kín đáo. Nhưng không sao: một khoảng vườn con ngay cửa sổ trông xuống dưới nhà làm cho căn nhà đỡ trần truồng nhưng làm cho đẹp lòng tôi nhất, đọt cái cây lớn ở giữa lá tốt xum xê đưa cả cành vào tới cửa sổ.

Ðó là mộ cây Y Lăng, một giống cây thuộc loại Ngọc Lan, lá to và dài, sờ vào hơi ráp, mà cành thì thay vì chổng lên trời lại cụp cả xuống phía mặt đất, như thể bị người ta bẻ vậy.

Từ lâu lắm rối tôi vẫn thích loại cây này bởi vì nó nhắc cho tôi nhiều kỷ niệm. Mồ mả người vợ tấm mẳn của tôi lúc hai đứa là tình nhân đêm chúng tôi vẫn gặp nhau trò chuyện trên một con đường trồng toàn Y Lăng. Vào bất kỳ mùa nào, nhưng nhất là mùa thu, hoa tiết vào trong gió một mùi hương ngát nhẹ không biết chừng nào, thơm không biết chừng nào. Có thể nói là cây ở cuối xóm mà hương tỏa ra không nhưng đầu xóm ngạt ngào mà cả những xóm chung quanh đều “nghe” thấy và cảm thấy lâng lâng sảng khoái.

Cây Y Lăng ở trong khoảng vườn nhỏ của căn nhà tôi đương coi bắt đầu trổ bông. Thấp thoáng trong chùm lá xanh màu ngọc bích, tôi thấy những cánh hoa màu vàng cũ, hình thù bé bỏng hé ra những cánh hoa trông từa tựa như hoa mống giồng ở Bắc, nhưng dài hơn, mềm mại hơn, uốn éo tình tứ hơn.

Tôi quay lại bảo người gác rằng tôi quyết định mướn căn nhà đó.


.:: Trang chủ ::.
>>Tag :
Online: 1 / 7
C-STAT